Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

Milan Kundéra

Milan Kundéra và sứ mệnh của tiểu thuyết
Hiện tượng Milan Kundéra
Những bài phát biểu đầu tiên Kundéra về các vấn đề lý luận văn học đã gây tiếng vang trong xã hội Séc. Năm 1955, trong tiểu luận Quanh những cuộc bàn cãi về di sản, ông đã hăng hái ủng hộ một cách đầy thuyết phục Vitezslav Nezval, người từng tuyên bố sẽ không có thơ thế kỷ XX, nếu thiếu Guillaume Apollinaire.

Nhưng bảo vệ phái tiền phong không phải là đề tài duy nhất trong bài viết của Kundéra. Ông khẳng định rằng trong văn học thế giới có chỗ cho mọi khuynh hướng khác nhau. Kundéra không đi theo sự phân chia thơ ra thành thơ truyền thống và thơ tiền phong, ông có các tiêu chí phân loại khác. Thứ thơ gần gũi nhất với mình ông gọi là "Thơ ca của cuộc sống trần thế": Rimbaud - Apollinaire - các nhà vị lai Nga - Nezval thời trẻ. Nhưng ông cũng thừa nhận các đại diện của thứ thơ "triết học tư tưởng" mà ông xếp vào đó Mallarmé - Valéry - Rilke - Pasternak, thừa nhận thứ thơ chính trị bậc cao. Luận điểm chính trong quan niệm của ông là trên cơ sở những thành tựu đã cần phải tiến tới sự tổng hợp: "... nghệ thuật của chúng ta đang dần dần bước vào một thời đại lịch sử rực rỡ của chủ nghĩa hiện thực cổ điển mới".

Vào những năm đó, Kundéra bắt đầu giảng dạy văn học thế giới ở Viện Hàn lâm điện ảnh Praha, nơi trong số các thính giả của ông có nhà đạo diễn sau này nổi tiếng Milos Forman. Gắn với hoạt động giảng dạy này là cuốn chuyên luận của Kundéra: Nghệ thuật tiểu thuyết. Con đường của Vladislav Vanchura đi đến sử thi lớn (1960). Thông qua sự đối chiếu cuốn tiểu thuyết cỡ vừa của nhà văn lớn thuộc phái tiền phong Séc với kiểu tiểu thuyết Balzac, ông nêu lên quá trình tiến triển của thể loại tiểu thuyết - từ phác họa chân dung xã hội đến phản ánh con người riêng rẽ.

Nhưng tiểu thuyết mới là khu vực Kundéra dành được sự chú ý cần thiết. Những tác phẩm chính của ông gồm có Chuyện đùa (1967), Cuộc sống không phải ở nơi đây (1970), Nhẹ kiếp nhân sinh (1984), Sự bất tử (1990), Chậm rãi (1994) (mấy cuốn về sau được ông viết thẳng bằng tiếng Pháp, sau khi chuyển sang sống ở Pháp). Các bản dịch tiểu thuyết của Kundéra thuộc vào danh mục sách bán chạy và được trao nhiều giải thưởng uy tín không chỉ ở các nước Tây Âu, mà còn ở Mỹ - ở đấy đã có bốn tập chuyên khảo và một tập bài viết về sáng tác của ông, một bộ phim do không thành công và bị ông từ bỏ, nhưng hiển nhiên là đã góp phần thêm cho danh tiếng của Kundéra). Các sách của ông còn được dịch ra tiếng Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên và các thứ tiếng châu Á khác.

Về tiểu thuyết  Châu Âu
Tiểu thuyết đối với Kundéra - đó là tiểu thuyết châu Âu, ở đây thuật ngữ "châu Âu" chỉ thuộc về một kiểu văn minh nhất định. Lịch sử tiểu thuyết này ông dẫn từ Cervantes, đến Diderot người mà ông đặc biệt kính trọng, Balzac, Flaubert, Tolstoi, Joyce, còn trong thế kỉ XX ông tách riêng ra "truyền thống Trung Âu" được đại diện bởi những tên tuổi Kafka, Hasek, Broch, Musil, Gombrowiz. Hạt nhân quan niệm này là ở chỗ Kundéra xem tiểu thuyết không phải như một trong các thể loại văn học giữa các thể loại khác, mà như một phương pháp phức hợp nhằm nhận thức cuộc sống và đưa lại những kết quả nhiều khi còn đáng tin cậy hơn so với các nghiên cứu khoa học.

Khái quát kinh nghiệm tích cực của các nhà văn kể trên, hoặc của T.Mann, E.Hemingway và một số người khác, cũng như tiếp tục suy xét những bài học từ sáng tác của chính mình, Kundéra nêu lên những yêu cầu mà tiểu thuyết cần phải đáp ứng để có khả năng hoàn thành được sứ mệnh cao cả. Tiểu thuyết, theo Kundéra, thể hiện trong mình "tinh thần của phức tạp", "hiền minh của hoài nghi", nó không đi tìm các câu trả lời mà đặt ra các câu hỏi, nó nghiên cứu chính ngay bản chất sự tồn tại của con người. Đối với ông, tiểu thuyết trước hết là "sự tổng hợp trí tuệ lớn", tự do thu nhận vào mình những suy tư về bất kỳ đề tài nào: "Không cái gì có thể đưa ra suy luận mà lại bị loại ra khỏi nghệ thuật tiểu thuyết". Đó không phải là những đoạn tiểu luận ngoại đề, mà là tư tưởng mang tính động lực chung bao trùm tất cả, toát ra từ các tiểu thuyết giá trị.

Ông viết: "Các nhân vật trong các tiểu thuyết của tôi - đó là những khả năng riêng mà tôi không thực hiện được. Vì thế tôi yêu mén tất cả chúng như nhau và cũng kinh sợ chúng như nhau, mỗi người trong số các nhân vật đó đã bước qua giới hạn mà bản thân tôi chỉ dám đi vòng. Chính cái giới hạn này (giới hạn mà đằng sau đó cái "tôi" của tôi kết thúc) đã lôi cuốn tôi. Chỉ ở phía sau nó mới bắt đầu những bí ẩn mà tiểu thuyết cần phải dò hỏi. Tiểu thuyết cần phải dò hỏi. Tiểu thuyết không phải là một thứ tôn giáo của tác giả, mà là sự nghiên cứu cuộc sống trong cái cạm bẫy do thế giới biến thành".

Điều làm Kundéra băn khoăn là độc giả hiện đại thích đọc các sách viết về những chuyện đồn đại của cuộc đời các nhà văn nổi tiếng, chứ không phải là các tác phẩm của họ. Theo ý ông, trong tiểu thuyết - "thứ văn xuôi tổng hợp lớn dựa trên trò chơi với các nhân vật hư cấu" - tác giả, khi đưa ra những đòi hỏi, những quyết định có thể hay không thể của mình để thử thách các nhân vật đó, tỏ ra tự do và cởi mở hơn rất nhiều so với qua thư từ, nhật ký, hồi ức. "Trò chơi với các nhân vật hư cấu" không nhằm mục đích đạt đến sự giống như thật, nhưng cũng không mâu thuẫn với những sự tìm kiếm chân lý, ngược lại, nó kết hợp với những suy ngẫm tạo thành cơ sở của sự nghiên cứu theo kiểu tiểu thuyết đối với cuộc sống. Theo niềm tin của Kundéra, tiểu thuyết kiểu mới hầu như sẽ tự động mang theo vấn đề phức điệu. Ông nhấn đi nhấn lại bản chất tra vấn của  tiểu thuyết, khả năng hoài nghi tất cả của nó. Chính dựa vào đó, theo Kundéra, nhà tiểu thuyết mới có khả năng tiến sát đến việc khám phá ra điều bí ẩn duy nhất mà hắn phải quan tâm - "điều bí ẩn của hiện sinh mà chỉ hắn và nghệ thuật tiểu thuyết của hắn mới khám phá ra được".

"Sau Joyce, chúng ta đã biết rằng sự phiêu lưu lớn nhất trong cuộc sống đã chuyển biến vào bên trong con người". Các nhà phê bình coi câu nói của ông đó là "tín điều" của Kundéra, thán phục sự quan sát tinh tế và sâu sắc của ông.

Kundéra rất quan tâm đến việc dịch. Chẳng hạn ông đã có riêng một bài viết phân tích việc dịch một câu của Kafka ra các thứ tiếng khác nhau. Bài viết đó cũng không hẳn nói về việc dịch, mà là nói về đặc thù của nghệ thuật tiểu thuyết. Kundéra khuyên: phải đọc các tiểu thuyết thật chậm rãi, chăm chú. Tuy thừa biết rằng khó mà tìm được một người nào trên đời đọc sách lại không nhảy cóc từng trang, ông vẫn tin cần phải viết ra những cuốn tiểu thuyết đáng để đọc chậm.

Nhìn chung, Kundéra tin tưởng vào thiên chức xã hội, nhân văn cao cả của nghệ thuật tiểu thuyết. Khi đưa lại cho con người sự nhận thức phù hợp nhất về ý của sinh tồn, nó đối lập lại các phương tiện thông tin đại chúng - những cá không để cho con người đối diện với chính mình, tước mất của con người ký ức lịch sử, đè nén cá tính của con người: "Cuộc sống thường xuyên bị ngốn nuốt bởi các "sức manh thoái hóa" và công việc của nhà văn - đó là những nỗ lực Don Quichotte nhằm bảo vệ con người khỏi sự thoái hóa, là khát vọng tạo ra một thế giới tưởng tượng nhỏ bé có sự tươi mới của một câu hỏi bất ngờ".

CÓ NHỮNG NHÀ VĂN NHƯ THẾ - Hà Vinh - Vương Trí Nhàn - Nhà xuất bản Hội nhà văn

Tôi đã được đọc Vô TriNhững mối tình nực cười của Milan 
Kundéra (bản dịch tiếng Việt) cách đây không lâu. Hai quyển sách đem lại cho tôi nhiều cảm xúc và suy tư. Trước đó người ta nhắc về ông ở mọi nơi: sách nghiên cứu văn học, báo chí, trò chuyện... vậy mà tôi không nhận thức được tầm vóc văn chương của nhà văn này. Giờ thì dĩ nhiên là không thể bỏ qua những tác phẩm cũng như những suy tư của một trong số những nhà văn vĩ đại nhất thế giới. Một điều đáng nói là trong khoảng thời gian đọc Vô tri, tôi cũng đã tiếp xúc tác phẩm của Paul Auster và Haruki Murakami. Có một chút trùng hợp ngẫu nhiên mang tính số phận mà tôi sẽ kể sau. Cả ba đều là những nhà văn tôi yêu thích nhất và lạ thay, cả ba chưa được nhận Nobel văn học dù luôn được đề cử. Có lẽ khuynh hướng của tôi là ưa thích những tác giả không-Nobel văn chương. :)

Le Clézio

"Cả thiên hạ đều ngây thơ" - Le Clézio
Tôi chưa hề biết chút gì về nhà văn Pháp này ngoại trừ điều đáng chú ý nhất là ông được vinh danh giải Nobel văn chương năm 2008. Khi ấy tôi khá trẻ, sự quan tâm văn học không rõ rệt như bây giờ. Phải nói là tôi trưởng thành muộn trong nhận thức văn học, một điều rất đáng tiếc. Giờ đây, tôi không còn thành kiến với Nobel văn chương nữa, tôi sẽ đọc những nhà văn đạt giải đó với sự thèm khát văn chương của mình. Vậy là tôi đã mua về một quyển tiểu thuyết của Le Clézio, mới in đây thôi. Tiện dịp một người bạn đưa cho đọc một quyển chân dung các nhà văn của Hà Vinh và Vương Trí Nhàn, gõ lại vào máy tính để về sau dễ tham khảo.

Le Clézio và hành trình tìm kiếm bản sắc
Trong số mấy chục tác phẩm của ông, có đến 22 tác phẩm in ra từ NXB Gallimard. Sau Procès-Verbal đoạt giải Renaudot, các tác phẩm Désert (Sa mạc) năm 1980 và Mondo et Autres Histoires (Mondo và những truyện khác) (1978) được in ra 5 vạn bản. Có 5 tác phẩm vượt qua con số 30 vạn bản.


"Chắc là hắn ta lạc lối trong hành lang rồi!" họ đoán vậy. Nhưng ngôi nhà xuất bản này ở Paris thì Jean Marie Gustave Le Clézio chẳng lạ lẫm gì. Năm 1963, những bức tường nhà xuất bản Gallimard đã vang lên tiếng nổ của thiên tiểu thuyết đầu tay của Le Clézio. Giải Renaudot trao cho tác giả cuốn Procès-Verbal (Biên bản) khi mới 23 tuổi.

Con người được hâm mộ từ thập kỉ 60 đó bây giờ đã ra sao? Với cách ăn mặc tuềnh toàng, mái tóc sáng cắt ngắn và cặp mắt thiên thần xứ Flandre, người ta có cảm giác Le Clézio không hề thay đổi. Chính ông từng nói: "Cho đến năm 30 tuổi, người ta vẫn còn là vị thành niên".


Nhà văn có một vị trí đáng kính trong văn học không lây nhiễm không khí thời đại. Le Clézio vẫn cứ là chàng trai tóc vàng không suy suyển, người thả mình theo những mộng mơ trên bờ các đại dương, vượt qua những hoang mạc để tìm kiếm một chân trời luôn luôn lẩn trốn, một dấu chân mơ hồ từng in lên mặt cát của những bộ lạc đã tiêu vong, những dân du cư lang thang từ Mexico đến Panama, hay từ hòn đảo Maurice đến Maroc. Dưới cái vẻ ngoài khắc khổ, con người này vẫn đầy nét thanh xuân, giữ tính giản dị và hồn nhiên của tuổi trẻ và cả cuộc sống phiêu bạt để thỏa mãn niềm khao khát tự do như một cánh chim trời.

Le Clézio đã trôi nổi với những chuyến viễn du kéo dài: 10 năm ở Mexico và cũng chừng ấy năm ở Mỹ. Cắm neo ở Albuquerque ở New Mexico, nhưng ông không hề bỏ ý tưởng tiếp tục cuộc hành trình của một chàng trai Robinson: quay về hòn đảo Maurice, mảnh đất cội nguồn của gia đình, rồi Ấn Độ và cả Úc. Đấy là một nhà văn của sự chuyển tiếp, của xê dịch, không ở chỗ này cũng không ở chỗ kia, của mảnh đất không người, chập chờn ẩn hiện như một bóng ma.


Cái ưu thế của bóng ma là nó không già đi với năm tháng mà nó trải qua. Le Clézio, với những cuộc săn tìm ngược dòng đời, một cách nào đó cũng là một bóng ma.


Nhưng Le Clézio cũng thú nhận: "Lúc nào cũng chuyển dịch. Việc đó không dễ dàng chút nào đối với những đứa con gái của tôi. Đứa đầu đang theo học ở Paris".


Phải chăng đấy cũng là vết thương của một người không ngừng tố cáo văn minh thành thị? Quả là thế, nhưng đối với ông, cái hình mẫu Pháp chưa đến nỗi là cái tệ hại nhất trong mô hình tồn tại. Con người xa xứ này thú nhận: "Tôi thiếu vắng âm thanh tiếng mẹ đẻ. Khi về đây, tôi thích thú tìm thấy lại sự vang vọng văn hóa đặc trưng của nước Pháp".


Vợ ông, Jemia, là hậu duệ của một tộc người du cư Aroussiyines. Cách đây 2 năm, hai người đã đặt chân đến thung lũng Sông Đỏ ở miền Nam Maroc - mảnh đất của tổ tiên bà. Mớ bòng bong về gốc gác chồng chéo nhau và những sự lai giống đó, Le Clézio đã không ngừng mày mò để gỡ cho ra đầu dây mối nhợ. Cha ông là người dân đảo Maurice (giữa Ấn Độ Dương) và mẹ là người Pháp. Ông kể lại: "Tuổi niên thiếu của tôi đã trôi qua không dễ dàng. Tôi trải qua khủng hoảng về bản sắc và khó khăn khi chấp nhận những người khác. Tôi ít nói".


Thế nhưng ông lại hay viết. Vào tuổi lên 7, trên chiếc tàu chở đến Nigieria để gặp gỡ cha mình, Le Clézio đã sửa chữa mẩu ký đầu tiên đầu đề là Một chuyến đi dài
. 52 năm sau, với hơn 25 tiểu thuyết (không kể những cuốn sách viết cho thiếu nhi và những truyện tranh), Le Clézio vẫn không bỏ bút.

Cuốn tiểu thuyết mới nhất Hasard (Ngẫu nhiên) in cùng với một truyện ngắn khác Angoli Mala viết trước đó 15 năm, như muốn chỉ ra cho những người trách móc ông đã thay đổi, rằng ông vẫn thế thôi. Tuy truyện Hasard
có phần lạc quan hơn và hai truyện này khi mới đọc có vẻ thật xa lạ với nhau, nhưng về cơ bản vẫn cùng một thứ nhạc điệu ấy, một thứ âm nhạc của Fugue và đối điểm của nó, những nẻo đường phiêu du từng quen thuộc với người đọc.

Lần này là Nassima. Từ bến càng Villefranche, cô gái này đã hóa trang thành con trai lên xuống chiếc thuyền buồm của Juan Moguer, một đạo diễn hết thời, để vượt Đại Tây Dương đến tận thế giới bên kia, hy vọng tìm lại gốc gác của mình và những kỷ niệm của người cha, một thầy thuốc quần đảo Antilles đã mất tích không để lại địa chỉ. Cái mà nhân vật nữ này "ngẫu nhiên" phát hiện ra sau khi người ta mở khoang thuyền nơi cô ẩn nấp là sự huy hoàng tinh khôi của biển cả, giống như một khải thị. Thực tế đó không phải là cách đích của chuyến đi mà chính là cuộc hành trình.


Còn Angoli Mala thì nói lên một bài học khác, kể lại sự trở về xứ sở của một chàng trai da đỏ do một mục sư Mỹ da đen nuôi dạy ở Panama. Rồi cái mà anh ta tìm thấy không phải là vẻ huy hoàng của nguồn cội được tưởng tượng và những huyền thoại về nó, mà là một lớp người bị rượu chè hành hạ và sống trong cảnh đói khổ tối tăm của kiếp nô lệ. Đối với anh, phải làm một chuyến đi thực sự, trong thế giới nội tâm, để tìm kiếm sự bình an và khuây khỏa trong sự trống vắng. Và đây là một hành trình đau xót và huy hoàng hướng đến cái câu hỏi vĩnh hằng, câu hỏi mà chỉ những nhà hiền triết, dửng dưng trước những bọt bèo và những tháng năm, mới có gan đặt ra: Con người tồn tại để được cái tích sự gì?


Con người lưu đãng này đã gặp Nassima nàng thơ của mình ở Panama trong những năm 70, vào dịp ông sống với người Mỹ da đỏ ở châu Mỹ. Le Clézio nói: "Đấy là sự lai giống giữa người da đỏ và da đen sống ngoài lề hai cộng đồng người. Đối với tôi, việc này trở thành một nguyên mẫu, một loại phụ nữ lẫn trốn, thuộc những nền văn hóa khác nhau. Tôi không tin là Eva chỉ có một nguồn gốc. Cuối cùng có thể là tôi muốn miêu tả về Eva (thủy tổ loài người)". Và ông cười về sự táo tợn của mình. Cái đẹp nguyên sơ, sự hoài nhớ khôn nguôi về một thế giới, một di sản đã mất đi - thiên truyện Hasard của ông dẫn người đọc đến với những cái đó như một nỗi ám ảnh. Nếu trong Hasard, văn phong của ông vẫn trần trụi, tinh lọc chính là để làm tôn lên vẻ đẹp của cái "không có tên, không dấu vết, không thuộc về ai, không có lịch sử và bao giờ cũng mới mẻ". Đó là đại dương.

Le Clézio nói: "Tôi có sự gắn bó cơ thể với biển cả. Trí tuệ tôi không cho phép tôi trở thành một thủy thủ. Hơn nữa tôi cũng không chắc mình có thể chịu đựng nổi công việc lao dịch của một hoa tiêu, của thói ma cũ bắt nạt ma mới và tinh thần hợp tác. Tôi không có tàu. Nhưng từ trực giác tôi tin rằng sự gắn bó đó có thể xâm chiếm con người tôi".

Vào tuổi 59, với một ý thức thường trực  gần như ngoan cố, Le Clézio đã không ngừng mong mỏi thoát ra khỏi những ràng buộc của cuộc đời. Ông chạy trốn. Ông tìm tòi cách làm thế nào đưa những cái cốt lõi vào cuộc sống thường nhật, bất kể những gì đã xâm chiếm ông, khiến ông trở thành một kẻ mộng mơ hiền lành, một kẻ "dã man vô hại" hay một nhà sinh thái học ngây thơ.

Le Clézio nói: "Cả thiên hạ đều ngây thơ. Đấy là sự ngây thơ tin vào sự tiến bộ, ngây thơ tin vào sự mới mẻ của nghệ thuật, ngây thơ tin vào Chúa Trời. Lúc 30 tuổi, tôi cảm thấy người ta đang đứng trước sự kết thúc một cái gì đó. Thực tế, đấy là sự kết thúc của thế giới chúng ta. Với tuổi tác, tôi đã tìm lại con người mình. Tôi trở nên ít bi quan hơn".

Ông còn muốn tin vào cái điều rằng: "tinh thần thanh xuân có thể cứu vớt thế giới".

Quả tình, thường người ta bỏ đi để rồi trở lại với cái cốt lõi nhất.

CÓ NHỮNG NHÀ VĂN NHƯ THẾ - Hà Vinh - Vương Trí Nhàn - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn

Xem thêm về Le Clézio:


http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/286873/Jean---Marie-Gustave-Le-Clezio-Khong-co-nhung-bien-gioi.html


http://vienvanhoc.org.vn/reader/?id=753&menu=74&s=Le+Cl%C3%A9zio

http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=672

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=7704

Italo Calvino (3)

Italo Calvino trên cây – Thế giới nhìn thế giới!


Những trào lộng và triết lý, những ma ảo pha hiện thực, bút pháp thử nghiệm mang tố chất kinh điển, những hoang đường ôm ấp khoa học… đã làm nên Italo Calvino, một trong những nhà văn quan trọng nhất của thế kỷ hai mươi.
Italo Calvino (1923 – 1985) sinh tại Cuba và mất tại Ý. Trải qua gần bốn thập kỷ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình… Calvino để lại quá nhiều kiệt tác. Từ tiểu thuyết tân hiện thực đầu tay là Đường đến tổ nhện đến bộ ba tác phẩm dụ ngôn về tổ tiên: Tử tước bị chẻ đôi, Nam tước trên cây, Hiệp sĩ không hiện hữu… Từ tiểu thuyết về vũ trụ Cosmicomics (Tiếu ngạo càn khôn) đến trò chơi tự sự kỳ ảo Những thành phố vô hình. Từ “siêu tiểu thuyết” Nếu đêm đông một lữ khách đến mô hình Palomar… Tất cả những tác phẩm ấy đều mở rộng tầm nhìn của ta về vũ trụ và đời sống, tâm linh và sự vật.

Vài điểm nhấn

Cosmicomics (Tiếu ngạo càn khôn) là tập truyện pha trộn khoa học (cosmos, vũ trụ) với trào lộng (comics). Sự hình thành vũ trụ, tốc độ ánh sáng, sự tiến hoá của con người, cuộc tuyệt diệt của loài khủng long… được kể qua nhân vật biến ảo xuyên thời gian và không gian là Qfwfq, biểu hiện những hình tướng khác nhau của sự sống như nguyên tử, loài nhuyễn thể, khủng long, con người…
Như truyện đầu tiên Khoảng cách của trăng, trăng gần trái đất đến nỗi mỗi tháng con người leo lên trăng để lấy sữa trăng. Và tình yêu đã thu hút lên trăng ít nhất là hai người…
Những thành phố vô hình, tiểu thuyết về những thành phố mộng ảo mà Marco Polo diễn tả (cho đại đế Hốt Tất Liệt) từng gặp trong những chuyến du hành. 55 thành phố, cái nào cũng huyền bí, hư ảo thuộc vào những phạm trù như hoài niệm, dục vọng, ký hiệu, con mắt, cái tên, cái chết, bầu trời… Tiểu thuyết không có hành động, không phát triển. Chỉ có những vấn nạn thiên thu về đời sống và cái chết, thực và ảo, bản chất của ngôn ngữ, địa đàng và ác mộng…
Nếu đêm đông một lữ khách là một thành công quốc tế trong sáng tác thử nghiệm của Italo Calvino. Tiểu thuyết viết theo ngôi thứ hai: mi. Mi mua một quyển truyện mang tênNếu đêm đông một lữ khách của Italo Calvino. Nhưng gặp phải một cuốn sách đóng nhầm. Mi gặp nàng Ludmilla xinh đẹp cũng có một bản đóng nhầm như thế. Cả hai đi tìm bản gốc thì lại gặp tác phẩm của một nhà văn Ba Lan. Rồi lại mười chương mở đầu của mười tiểu thuyết thuộc các thể loại khác nhau như trinh thám, erotica của Nhật, truyện ma, truyện huyền bí… cứ như là trò tinh nghịch của một dịch giả bất thường nào đó. Cuối cùng, Mi và Ludmilla yêu nhau, cùng nhau đọc tiểu luận của Calvino về sự đọc và sự viết.

Vài tác phẩm dịch sang tiếng Việt

Ngoài tiểu luận Sáu điểm ghi nhớ cho thiên kỷ tới do Cao Việt Dũng dịch (đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài), chỉ có vài tiểu thuyết được chuyển ngữ sang tiếng Việt:Palomar, Vũ Ngọc Thăng dịch, NXB Hội nhà văn, 2004; Nếu đêm đông một lữ khách, Ngự Thuyết dịch (đăng trên Giai phẩm chủ đề); và một số truyện ngắn trong các tuyển tập, trên mạng.
Tác phẩm của Italo Calvino bắt đầu từ một điểm nhìn, từ những điểm nhìn khác nhau. Đó là cái nhìn của tự do chọn lựa. Nhưng dẫu sao đi nữa, theo Italo Calvino, vẫn là cái nhìn của “thế giới nhìn thế giới”.
Trong Palomar, ông viết: “Có cái cửa sổ hướng ra thế giới. Phía kia là thế giới, thế còn phía này? Vẫn là thế giới: bạn muốn nó là gì khác bây giờ… Cũng thế giới, nhân cơ duyên này, chia đôi thành một thế giới đang nhìn và một thế giới đang được nhìn… Chẳng phải chính anh cũng là một mảng của thế giới, đang nhìn một mảng khác của thế giới? Hoặc giả, cho rằng có một thế giới bên này và một thế giới bên kia cửa sổ, thì cái tôi có lẽ chính là cái khung cửa sổ qua đó thế giới nhìn thế giới” (bản dịch của Vũ Ngọc Thăng).
Đó là một cái nhìn gần như vô ngã.
Cái nghịch lý mà nhân vật của Calvino thường cuốn theo là làm sao có thể tự do đối với thế giới nhưng vẫn thuộc về thế giới.
Nam tước trên cây
Trong Nam tước trên cây, tác phẩm vừa được giới thiệu đầy đủ ở Việt Nam, ta được làm quen với một nhân vật như thế, chàng nam tước trẻ tuổi Cosimo.
Kiệt tác tiểu thuyết này, Calvino viết vào năm 1957, toả ra một làn không khí vừa kỳ ảo thần tiên như những phiêu lưu của cô bé Alice, vừa trầm tư triết lý như những tuỳ bút hiện sinh. Từ chối món ăn ốc sên ở nhà mình, cậu bé Cosimo bỏ ra vườn, trèo lên cây và thề sẽ không bao giờ trở xuống mặt đất suốt đời mình. Từ đó, cậu sống trên cây, chuyền trên những cành cây vùng Bóng Râm như khỉ, để làm một con người tự do. Ở khoảng cách ấy, cậu thực hiện một cuộc sống đầy tương tác với mặt đất, mật thiết và hiệu quả hơn xưa như dẫn nước, cứu chữa nạn cháy rừng, chống cướp… và vẫn có thể đọc sách, nuôi chó, yêu đương, trao đổi thư từ với Voltaire ở Paris và gặp gỡ Napoleon vừa đến xứ Bóng Râm!
Khi đạt đến tuổi 65, Cosimo đu lấy một khinh khí cầu của người Anh bay qua và biến mất về phía biển. Gia đình dựng lên một nấm mồ tượng trưng, chỉ là một tấm bia tưởng niệm với lời bi minh: Cosimo Mưa Giông xứ Rondo/Sống trên cây/Luôn yêu thương quả đất/Bay về trời.
Triết lý của Cosimo là: “Ai muốn nhìn mặt đất một cách thích hợp thì phải giữ một khoảng cách cần thiết với nó”. Suốt đời giữ khoảng cách ấy, chàng vẫn có thể trở thành một Cosimo đa nhân cách.
Một Cosimo tình nhân, yêu và được phụ nữ yêu.
Một Cosimo người đi săn, sống nhờ săn mồi và hái quả như người nguyên thuỷ.
Một Cosimo trí thức, không chỉ đọc nhiều sách uyên bác, mà còn viết nhiều tiểu luận triết lý.
Một Cosimo người mơ mộng, chàng muốn xây một địa đàng trên những ngọn cây.
Italo Calvino tất nhiên không phải là Cosimo. Ông chỉ thử nhìn thế giới từ trên cây cùng với chàng. Ông chỉ thử nhìn thế giới cùng với Palomar, với Marco Polo, với Qfwfq… và như vậy, ông tránh được cái nhìn biên kiến về thế giới, cái thế giới mà ông yêu thương, muốn cùng nó chơi đùa.
Một cuộc chơi đùa thanh thoát và hiền minh.
Cái nhìn của Calvino, muốn ôm choàng thế giới. Theo đúng cách nói của ông, đó là “thế giới nhìn thế giới”.
Nguồn: Sài Gòn tiếp thị số ra ngày 24 tháng 8 năm 2009

Xem thêm về Italo Calvino:
http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=142


http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=867F54B112B57A6E5BDAEA8B103B07F8?action=viewArtwork&artworkId=603


http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=867F54B112B57A6E5BDAEA8B103B07F8?action=viewArtwork&artworkId=138

Italo Calvino (2)

ITALO CALVINO TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Phóng viên The Paris Review 

chuyển ngữ : Trần Tiễn Cao Đăng


NGƯỜI PHỎNG VẤN
Ông viết như thế nào? Ý tôi là, ông thực hiện hành vi viết như thế nào?


CALVINO
Tôi viết tay, sửa đi sửa lại nhiều lần. Phải nói là tôi gạch bỏ nhiều hơn viết. Tôi phải săn tìm từ ngữ khi nói, và khi viết tôi cũng gặp những khó khăn y như vậy. Rồi tôi viết thêm, chèn thêm vào, bằng chữ nhỏ li ti. Rồi đến một lúc tôi không đọc được chữ của chính mình nữa, nên tôi phải dùng kính lúp để luận ra mình đã viết gì. Tôi có hai kiểu viết khác nhau. Một kiểu viết chữ khá to - những chữ o và chữ a có một cái lỗ to ở tâm. Tôi viết kiểu này khi chép lại hoặc khi tôi khá chắc về những gì tôi viết. Kiểu viết kia của tôi tương ứng với một trạng thái tinh thần kém tự tin hơn và thường rất bé - chữ o hệt như dấu chấm. Đến cả tôi cũng khó luận ra nữa.Các trang viết của tôi đầy những dòng gạch bỏ và sửa chữa. Có một thời gian tôi viết tay một số bản . Bây giờ, sau bản thảo đầu tiên viết bằng tay và bị gạch tứ tung, tôi bắt đầu đánh máy, vừa đánh vừa luận chữ. Cuối cùng khi đọc lại bản đánh máy, tôi phát hiện ra một văn bản hoàn toàn khác và tôi thường sửa tiếp trên văn bản này. Rồi tôi lại chỉnh sửa nữa. Trên từng trang một trước hết tôi cố gắng chỉnh sửa bằng máy đánh chữ; rồi tôi lại sửa thêm một ít bằng tay. Thường trang viết của tôi chằng chịt đến mức tôi phải đánh máy lại lần thứ hai. Tôi ganh tị với những nhà văn có thể viết mà không cần sửa.

NGƯỜI PHỎNG VẤN
Ông có thấy rằng tuổi trẻ hôm nay có những đặc điểm khác với tuổi trẻ của ông? Khi lớn tuổi hơn ông có nhận thấy ông có khuynh hướng không thích những gì người trẻ làm hơn hay không?

CALVINO
Nhiều lúc tôi phát điên với những người trẻ; tôi nghĩ về những bài lên lớp lê thê mà hẳn tôi không bao giờ giảng, trước hết vì tôi không thích dạy dỗ người khác, và thứ đến, chẳng ai thèm lắng nghe tôi. Nên chẳng còn gì nhiều nhặn cho tôi làm ngoài việc tiếp tục ngẫm nghĩ về những khó khăn trong giao tiếp với người trẻ. Có cái gì đó diễn ra giữa thế hệ của tôi và thế hệ của họ. Một sự tiếp diễn về trải nghiệm bị đứt đoạn; có lẽ chúng tôi thiếu những điểm tham chiếu chung. Nhưng nếu tôi nghĩ lại về tuổi trẻ của tôi, sự thật của vấn đề là tôi cũng chẳng chú tâm đến những phê bình, khiển trách, khuyến nghị. Nên hôm nay tôi không có thẩm quyền để nói.

NGƯỜI PHỎNG VẤN
Tiểu thuyết gia có phải là những kẻ nói dối? Nếu không, thì họ nói loại sự thật nào?

CALVINO
Tiểu thuyết gia nói về cái khoảnh sự thật ẩn giấu dưới đáy của mỗi lời nói dối. Với một nhà phân tích tâm lý nói dối hay nói thật không quan trọng mấy bởi vì những lời nói dối cũng thú vị, hùng hồn, và khơi lộ chẳng kém bất kỳ điều được cho là sự thật nào.Tôi cảm thấy nghi ngờ nhà văn nào xưng là kể toàn bộ sự thật về chính họ, về cuộc đời, hay về thế giới. Tôi thích sống cùng những sự thật tôi tìm thấy trong các nhà văn tự thể hiện mình như những kẻ nói dối mặt dày nhất. Mục đích của tôi khi viết Nếu một đêm đông có người lữ khách, một tiểu thuyết hoàn toàn dựa vào huyễn tưởng, là để tìm thấy theo cách này một sự thật mà tôi sẽ không thể tìm thấy theo cách nào khác.

NGƯỜI PHỎNG VẤN
Theo ông thì nhà văn viết những điều họ có thể viết hay là viết những điều nên viết thì hơn?

CALVINO
Nhà văn viết những điều họ có thể viết. Hành vi viết là một tính năng chỉ trở nên hiệu quả nếu nó cho phép người ta bộc lộ cái tôi nội tại. Một nhà văn cảm được nhiều dạng hạn chế khác nhau - hạn chế về văn chương ví dụ như số dòng trong một bài sonnet hay những quy tắc của bi kịch cổ điển. Những điều này là một phần của cấu trúc tác phẩm trong đó tính cách của nhà văn được tự do bộc lộ. Nhưng có một số hạn chế về tôn giáo, đạo đức, triết học, và nghĩa vụ chính trị. Những thứ này không thể được áp đặt trực tiếp lên tác phẩm mà phải được lọc qua cái tôi nội tại của nhà văn. Chỉ khi chúng là một phần tính cách sâu kín nhất của nhà văn thì chúng mới có thể tìm thấy chỗ trong tác phẩm mà không bóp nghẹt tác phẩm.

NGƯỜI PHỎNG VẤN
Ông có nghĩ là châu Âu bị văn hóa Mỹ và Anh lấn át?

CALVINO
Không. Tôi không chia sẻ những phản ứng mang tính sô vanh. Kiến thức về văn hóa nước ngoài là yếu tố sống còn của bất kỳ nền văn hóa nào; tôi tin chúng ta không bao giờ có thể có đủ kiến thức ấy. Một nền văn hóa phải biết cởi mình trước những ảnh hưởng ngoại nếu nó muốn gìn giữ cái mãnh lực sáng tạo của chính nó. Ở Ý thành tố văn hóa quan trọng nhất luôn là văn học Pháp. Cả văn học Mỹ nữa cũng chắc đã lưu lại dấu ấn trong tôi cả đời. Poe là một trong những hứng thú đầu tiên của tôi; ông dạy tôi tiểu thuyết là gì. Rồi sau tôi khám phá ra rằng Hawthorne đôi khi còn vĩ đại hơn Poe. Đôi khi thôi, không phải luôn luôn. Melville. Một tiểu thuyết hoàn hảo, Benito Cereno, thậm chí còn có giá trị hơn cả Moby-Dick. Dầu vậy, thoạt tiên tôi học nghề dưới bóng của Cesare Pavese, dịch giả tiếng Ý đầu tiên của Melville. Trong số những hình mẫu văn chương đầu tiên của tôi có những nhà văn thứ yếu cuối thế kỷ mười chín như Stephen Crane và Ambrose Bierce. Những năm tôi phát triển nghề văn, quãng những năm bốn mươi, là sự thống trị toàn diện của Hemingway, Faulkner, và Fitzgerald. Vào thời đó ở Ý chúng tôi như cuồng say với văn chương Mỹ. Cả những tác giả rất khiêm tốn như Saroyan, Caldwell và Cain cũng được coi là những hình mẫu về phong cách. Rồi còn đó Nabokov, người mà tôi trở thành fan và vẫn còn là fan của ông. Tôi phải thừa nhận rằng mối quan tâm của tôi đối với văn chương Mỹ bị lèo lái bởi khao khát theo dõi những gì xảy ra ở một xã hội mà trong chừng mực nào đó dự báo những gì sẽ xảy ra ở châu Âu một vài năm sau. Theo nghĩa này, những nhà văn như Saul Bellow, Mary McCarthy, Gore Vidal quan trọng vì mối liên hệ của họ với xã hội được biểu hiện trong việc cho ra đời những áng văn chất lượng. Cùng lúc đó tôi luôn tìm kiếm những giọng văn mới - như việc khám phá ra các tiểu thuyết của John Updike trong quãng giữa những năm năm mươi.

nguồn: lamvuthao.blogspot.com

Italo Calvino


"Nhẹ không phải là cái nhẹ của lông hồng mà là cái nhẹ của cánh chim" - Italo Calvino

Italo Calvino là nhà báo, nhà văn (sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết) người Italy sinh ngày 15-10-1923 tại Cuba - một trong những cái nôi của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ông để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt là mảng truyện cổ viết lại.

Cha ông là giáo sư nông học của Đại học Turin. Được cha hướng theo ngành khoa học tự nhiên nhưng Calvino thích văn học hơn. Calvino rời Cuba khi đến tuổi thành niên. Ông quay về Italy và gia nhập lực lượng kháng chiến Italy trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau chiến tranh, ông sống ở Turin, theo học các khóa học về văn chương trong lúc đang làm việc cho tờ tạp chí cộng sản Thống nhất và Nhà xuất bản Einaudi.

Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông Đường đến tổ nhện in năm 1947, được lấy cảm hứng từ cuộc chiến chống phát xít. Hai năm sau, tập truyện ngắn Adam, một buổi chiều tà và những truyện khác (1949) của ông ra đời. Những năm 1950, Calvino thiên sang lối viết huyền ảo và ẩn dụ. Ông viết hàng loạt truyện ngắn nổi tiếng như Tử tước phân đôi (câu chuyện kể về một người bị chẻ ra làm đôi - một nửa tốt, một nửa xấu - bởi một phát đại bác), Nam tước trên cây (kể chuyện một nhà quý tộc quyết định leo lên sống ở trên cây, nhưng vẫn giữ lối sinh hoạt như những người đang sống ở dưới đất)...

Calvino từng sống ở Paris mười lăm năm, được mời đi thỉnh giảng tại nhiều trường đại học trên thế giới, trong đó có Harvard. Ông là người viết nhiều và được xem là một trong những khổng lồ văn chương Italy. Tập truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông là tập Truyện cổ tính Italy (1956). Đây là tập truyện tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác truyện cổ mà thực chất là nhại lại truyện cổ trong truyện ngắn hậu hiện đại - với các bậc thầy như Kafka, Borges, Márquez...

Những tác phẩm huyền ảo của Calvino ở giai đoạn sau bao gồm Những thành phố vô hình  (1972), Nếu vào một tối mùa đông một du khách (1979)... Năm 1980, tập tiểu luận phê bình Năng lực văn chương của Calvino được xuất bản, càng khẳng định khả năng am hiểu văn chương của bậc thầy truyện ngắn này.


Calvino là một trong những nhà văn hậu hiện đại vĩ đại nhất của Italy nửa sau thế kỉ XX. Đặc biệt ta có thể xem ông là nhà văn linh hoạt nhất, không chỉ về những nội dung được ông đề cập hoặc tái hiện trong tác phẩm mà còn là cách thức linh hoạt khi kể chuyện, cấu trúc phức hợp khi dựng cốt truyện và phong cách đa diện mạo được ông phát triển trong nhiều áng văn chương.

Calvino khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình khi nước Italy tiêu điều sau chiến tranh thế giới thứ hai và gánh nặng tội lỗi phát xít luôn đè nặng trên lương tri những người tiến bộ. Ông được xếp vào hàng ngũ những nhà "hiện thực mới". Trào lưu này thuộc về các nhà văn trẻ xuất hiện ở Italy sau chiến tranh. Họ tìm kiếm một lối trần thuật mới, xác định phong cách của dân tộc, vượt thoát sự ảnh hưởng của tiểu thuyết Hoa Kì. Nỗ lực lớn lao của chủ nghĩa hiện thực mới ở Italy là cố vượt qua bóng ma quái ác của hai mươi năm hiểm họa phát xít ngã bóng lên quê hương.

Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, Đường đến tổ nhện, khảo sát phong trào nghĩa quân không phải bằng các thuật ngữ của người viết tiểu sử các thánh mà bằng cái nhìn chất phác của Pin, một kẻ cầu bơ cầu bất. Kĩ thuật này cho phép Calvino trộn lẫn những thông điệp nghiêm túc với các yếu tố mỉa mai. Không ngần ngại khi pha trộn các yếu tố hoang đường vay mượn từ truyện cổ tích vào chủ nghĩa hiện thực, Calvino tạo nên một diện mạo mới cho hình thức tự sự của mình.

Đầu những năm 1950, tan vỡ ảo tưởng khi nỗ lực bày tỏ các thông điệp xã hội nghiêm túc trong những câu chuyện mang tính anh hùng của thời kì kháng chiến; Calvino quay sang viết loại truyện mà ông thích đọc, Tổ tiên của chúng ta là tác phẩm bộ ba, bao gồm ba phần riêng lẻ, được dựng theo cấu trúc của truyện cổ tích, truyện phiêu lưu và truyện hiệp sĩ lãng mạn.

Hiệp sĩ không tồn tại kể chuyện một chàng hiệp sĩ đang tìm kiếm sự xác định bản thể giữa các thái cực được đề xuất bởi Agilulf - một con người hoàn hảo nhưng không có hình hài, nơi cư ngụ của ông ta là bộ áo giáp, và cực kia là Gurdulu - một kẻ đầy đủ hình hài nhưng không có trí tuệ. Cuốn tiểu thuyết cũng được ghi nhận ở góc độ trần thuật. Hầu hết các nhân vật đều hiện diện qua dòng suy tưởng của Suor Teodora, ngwoif kể chuyện và cũng là nhà nghiên cứu những giới hạn của chủ nghĩa hiện thực và những vấn đề thuộc về tác giả khác. Sự thay đổi diện mạo cuối cùng, trong đó nữ tu sĩ Teodora hiện diện là nữ chiến binh Bradamante, là hiện thân từ những nỗi lo âu của chính Calvino trong giai đoạn này về vai trò của ông như một trí thức suy ngẫm, như là sự đối nghịch với tư cách một đảng viên chính trị hiếu động.

Sáng tác của Calvino kể từ đó đến 1963 chủ yếu là truyện ngắn và truyện vừa. Tất cả đều thấm đẫm yếu tố hoang đường, siêu nhiên, huyền ảo. Năm 1963 là năm đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của Calvino. Từ tiểu thuyết dài hơi ông chuyển sang sáng tác các truyện ngắn hơn, điển hình là tiểu thuyết dưới 100 trang Người quan sát. Nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết này phản đối việc tiểu thuyết kể chuyện về con người mà tập trung vào các vấn đề thuộc về khoa học.


Trong Những thành phố vô hình (1972), nhân vật Marco Polo miêu tả cho vị Hoàng đế vĩ đại trong 55 khổ thơ văn xuôi về những thành phố trong vương quốc của ông ta. Tác phẩm này được dựa nhiều vào sách du kí của nhà thám hiểm và du lịch nổi tiếng thành Viên Polo. Nó chứng thực mối quan tâm của Calvino trong việc viết lại các văn bản cổ. Niềm đam mê này cũng được thấy rõ trong Nếu vào một tối mùa đông một du khách... Tác phẩm được xem là một dạng siêu tiểu thuyết (Hypernovel), được cấu trúc và viết lại nội dung từ kiệt tác Nghìn lẻ một đêm. Với cái khung gồm mười hai chương, trong đó "bạn" - độc giả (một đối tượng nam giới) và một bạn đọc nữa giới đang cố đọc câu chuyện Nếu vào một tối mùa đông của Calvino. Cách kể này cho phép Calvino phô diễn trình độ điêu luyện bậc thầy trong việc tái sinh những phong cách hoàn toàn khác lạ với lối văn hư cấu đương đại và cùng lúc đó loại bỏ tính sự kiện trong câu chuyện khung để chống lại việc đuổi theo các chi tiết hấp dẫn độc giả. Toàn bộ cuốn sách được dựng trên nhiệt huyết kể chuyện cũng như năng khiếu hài hước và mối quan tâm của Calvino với lí luận văn học đương đại.


Tác phẩm cuối cùng được in vào lúc sinh thời, Ngài Palomar trình diễn một lối kể đặc biệt khác lạ. Dựa trên những chiêm ngẫm bất tận của ngài Palomar, một ông lão sống vào thập kỉ 1980 tại Italy, tác phẩm được chia làm 27 phần, mỗi phần lại được chia ra thành ba phần nhỏ. Nhân vật chính được lấy tên theo tên của chiếc kính thiên văn khổng lồ đặt tại California. Điều này đã nối cảm hứng khoa học về việc quan sát và khám phá vũ trụ với cảm hứng nghệ thuật của Calvino lại với nhau.


Tác phẩm chưa hoàn thành và được xuất bản sau khi Calvino qua đời có nhan đề Dưới Jaguar Sun cũng cho thấy mối quan tâm đầy hứng khởi của nhà văn về lối tự sự ghép mảnh. Calvino dự kiến tác phẩm bao gồm năm câu chuyện về năm giác quan, nhưng ông chỉ kịp hoàn thành chuyện của ba giác quan: khứu giác,vị giác và thính giác.


Dù được chú ý với tư cách là nhà viết lời nhạc kịch và nhà phê bình, lí luận văn học, nhưng vị trí bậc thầy văn xuôi hiện thực huyền ảo luôn được dành cho Calvino. Là người có cái nhìn  bao quát hiện thực rộng lớn, người am hiểu sâu sắc các giá trị nghệ thuật truyền thống và hơn hết là người luôn đề xuất những cách tân táo bạo trong sự nghiệp văn chương.  Calvino xứng đáng là bậc thầy của nghệ thuật tái sinh thể loại, là triết gia cừ khôi của kỉ nguyên hậu hiện đại trong việc năm bắt và tái hiện thực trạng tồn tại của con người.


Calvino từng phát biểu về mối quan tâm của ông với những câu chuyện cổ: "Nếu trong suốt một giai đoạn nào đó trong văn nghiệp của mình tôi bị cuốn hút bởi truyện kể dân gian và truyện cổ tích, thì đấy chẳng phải là kết quả của lòng trung thành đối với truyền thống văn hóa dân tộc (nên hiểu rằng nguồn gốc của tôi bén rễ trong thời hiện đại hoàn toàn và của Italy nhiều quốc tịch), cũng không phải là kết quả từ việc luyến tiếc quá khứ về những điều tôi đã đọc khi còn thơ ấu (trong gia đình tôi, trẻ con được đọc duy nhất loại sách giáo dục, đặc biệt là những cuốn có cơ sở khoa học nào đó). Đúng ra là bởi vì mối yêu thích của tôi đến văn phong và cấu trúc, đến sự cô đọng, nhịp điệu và logic chặt chẽ mà nhờ chúng, câu chuyện được kể nên. Trong quá trình kể lại những câu chuyện cổ Italy như được ghi lại bởi các học giả ở thế kỉ trước, tôi thấy vô cùng thú vị vì văn bản gốc cực kì súc tích. Tới mức tôi cố chuyển tải, thán phục độ súc tích và cùng lúc đó vay mượn sức mạnh trần thuật hẳn là vĩ đại nhất kia".


CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO & GABRIEL GARCIA MÁRQUEZ - PGS.TS Lê Huy Bắc - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Ernest Hemingway (3)

Trăm năm cô đơn với ngòi bút
Quay về từ lò lửa chiến tranh, Hemingway đã trả giá đắt cho sự tồn tại nếu không phải là ý thức được nó ít ra một cách sáng suốt. Cái cách phòng ngự tốt nhất để chống lại sự hư vô và mọi "ảo tưởng trữ tình" về cuộc sống mà ông tìm thấy là trong công việc cô đơn của nhà văn.


Ở Key West, từ năm 1928, Hemingway đã ly khai với xã hội Mỹ. Ông chạy trốn một đất nước bị chao đảo bởi sự cấm đoán chống cộng và nạn nhân của suy thoái. Ngược lại với William Faulkner, cắm rễ vào vùng sâu của miền Nam, ông đã khước từ việc đồng nhất mình với đất nước sinh ra mình. Thực tế cho đến khi chết ông sống tại Finca Vigia, rất gần La Havane (Cuba) đằng sau dãy tường cao màu trắng, trong một ngôi nhà không có quạt máy mà cũng chả có máy điều hòa nhiệt độ. Chính ở đây ông đã viết ra phần lớn những tác phẩm của mình. Tờ Paris Review kể lại: "Từ sáng sớm, ông thức dậy, đứng trước bàn viết, tập trung tư tưởng đến cao độ. Ông chỉ đổi chân khi mỏi vì trọng lượng cơ thể dồn quá lâu lên một chân, mồ hôi tháo ra khi cảm hứng về nghệ thuật nhất thời bị mất đi và cam lòng làm nô lệ cho thứ kỷ luật tự áp đặt cho mình và tuân thủ cho đến giữa trưa".
Z


Cần nhắc lại rằng Hemingway là một nhà văn. Trong 7 tháng (kể từ tháng 4/1917) mà ông sống tại tòa soạn tờ Star ở Kansas City là những ngày tháng tạo dựng nên ngòi bút của ông: ông hình thành và xác lập ra văn phong, nghệ thuật viết văn và toàn bộ cuộc sống của mình. Việc trải qua nghề báo đã thuyết phục ông rằng ngôn ngữ trần thuật có lẽ rất gàn gũi với ông, cái kiểu nói lóng. Văn chương của ông, rất chặt chẽ, là sự gặp gỡ của hai khuynh hướng lớn của văn học Mỹ: Chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa tượng trưng. Quả vậy, ông gạt bỏ sự che đậy, cái mà qua nghề báo ông cảm thấy là cần thiết. Khi 35 tuổi, ông đăng trên tờ Esquire một bài báo nêu lên cho chúng ta một bài học viết văn thật tuyệt vời: "Cái khó nhất ở đời là viết ra một câu văn hoàn toàn chân thật về những con người. Trước hết phải nắm được chủ đề, rồi biết cách viết ra." Hemingway còn nói: "Công việc này đòi hỏi sự dâng hiến hoàn toàn giống như nghề một giáo sĩ". Đối với ông, viết văn là một công việc cụ thể, thuộc về thể chất. Ông viết chậm và khó khăn. Ngày qua ngày, tháng hết tháng, ông dậy từ rạng sáng, đọc lại những trang viết ra ngày hôm trước, chữa lại chỗ này, chỗ kia rồi viết tiếp, bắt đầu từ câu cuối, chữ cuối và cỗ máy được khởi động lại. Với ông, viết lách bao giờ cũng nguy hiểm và không hề hoàn tất. Ông đã viết lại 32 lần những trang cuối của cuốn Giã từ vũ khí và đã sửa chữa khoảng 30 lần trên bản in thử! Những bản thảo của ông chỉ ra sự quan tâm kỹ càng của ông đối với những gì ông sửa chữa, gạch xóa, kiểm duyệt hay cắt bỏ. Ông nói: "Tôi muốn tước bỏ ngôn từ để bóc trần nó ra cho đến tận xương". Đối với Hemingway viết lách chính là phân biệt với cái chết. Viết là cách để phá vỡ sự cô đơn. Ông viết giống như không phải vì ông có thể viết và muốn viết mà vì cần phải viết. Ông lắng nghe con quái vật trong người mình. Ông mời mọc chúng ta chia sẻ những trực giác của mình, những cảm quan của mình về cuộc đời. Ông để cho những trang viết tự nhân lên, chiếm lĩnh lấy ông. Ông biến việc viết lách thành công việc lao dịch chính và là niềm vui sảng khoái nhất.


Người ta đã biết rằng đối với Hemingway, viết lách là công việc nghiêm chỉnh. Người ta chỉ được viết về những gì mình hiểu và bao giờ cũng phải chân thực. Những trích dẫn của Hemingway về "sự chân thực ban đầu" thì có đến hàng trang, những sự chân thực chưa phải là sự thực. Nhà văn là chân thực khi họ nói lên từ thâm tâm mình và thế giới tinh thần của một nhà văn có thể là một bí mật lộn xộn đáng kể, một sự hỗn độn. Hemingway đã áp dụng vào văn chương cái ướng nguyện mà nhà văn Anh Kipling đã khuôn đúc nên: "Trước hết là thu thập sự kiện và làm biến dạng chúng theo ý của mình", nhưng ông còn thêm vào đấy một kích thước riêng cho mình: kiểm tra lại chúng từ thực tế. Trong thứ văn học này, thứ văn học tìm kiếm sự cứu rỗi trong sự hoàn mỹ, mà theo Hemingway "sự thanh bạch của nhà văn cũng giống như trinh tiết một cô gái. Nếu nó mất đi thì nó không thể tìm lại được". Cần phải tìm hiểu Hemingway từ một góc độ khác của huyền thoại ông, đằng sau những dòng suối rượu Whisky và Scott của Floridita, những cú đấm của Bodegita del Medio và đằng sau những buổi tối hẹn hò với Ingrid Bergman và Ordonez, đằng sau những ván chọi gà và môn bóng chày. Rồi đằng sau biển cả, trò chơi săn bắn và cả chiến tranh. Hemingway thuộc về cái mà người ta có thể gọi là dòng nhà văn nam tính. Nhưng tất cả cái đó chỉ là chiếc mặt nạ và sự đau đớn. Từ đáy sâu, môn quyền Anh hay tình yêu bạo lực nói lên một triết lý. Thay vì húc mạnh, tốt hơn là có thể chịu đòn mà không van vỉ. Đấy là người đấu sĩ bị thương trên đấu trường trong Chuông nguyện hồn ai, đấy là người võ sĩ quyền Anh nhà nghề giỏi chịu đòn và có thể để mất một trận đấ lừa gạt, đấy là một người đi câu tóm được một con cá tuyệt vời và để mất nó đi. Trong bạo lực, người ta học được sự thất bại. Hemingway từng nói: "Cả thiên hạ đều ở trên võ đài. Người ta chỉ tồn tại khi tung ra những nắm đấm. Tự mình tôi đã đấu đá cho đến ngày cuối và cái ngày đó tôi lại tự đánh mình để chấp nhận cái chết, như là một cái gì đẹp đẽ, cái đẹp giống như người ta từng thấy từ chủ nhật này đến chủ nhật khác trên đấu trường".


Bỗng chốc tất cả đều trở nên rõ ràng. Huyền thoại về sức mạnh cơ thể vô địch chỉ là một thứ đánh lừa mà đằng sau nó là một Hemingway khắc kỷ: sự chiến thắng trong thất bại. Cái con người mà những dân sơn dã ở Vorarlberg mệnh danh là "Chúa Christ, kẻ uống rượu anh đào" là một con người bị tổn thương. Tất cả cũng giống như bạo lực hay rượu, chỉ là một thứ che đậy. Để phục vụ cho truyền thuyết, chiếc mặt nạ đó che chở cho Hemingway và tham gia vào những đồ hóa trang của người săn thú rừng, của phóng viên chiến tranh, của thứ nội tạng không biết chán, một tượng đài đầy nam tính, những cái đã che giấu ông nhưng lại khiến ông phàn nàn: "Tôi muốn được thừa nhận là nhà văn mà không phải là một con người tham gia nhiều cuộc chiến tranh và càng không phải là một võ sĩ quyền Anh hay một kẻ đi săn, một dân đi biển hay một kẻ nát rượu. Tôi chỉ thích là một nhà văn và được nhìn nhận như vậy".


Đấy là điều mà chúng ta ghi nhớ, rằng Hemingway là một nhà văn. Ở tuổi 50, ông kể lại với một nhà báo rằng sự e thẹn của ông vẫn không suy suyển. Là một đứa bé sinh ra ở một khu ngoại ô của Chicago, ông có chiếc cần câu cá từ khi lên 3, có chiếc súng săn cỡ nòng 20 vào năm 11 tuổi và sau đó suốt đời tìm kiếm lại cái thiên đường đã mất của những chuyến đi săn dọc bờ hồ Wallon với cha mình, mảnh đất của bộ tộc da đỏ Ojibway, và đã trở thành thế giới huyền thoại của ông. Có cái gì người ta không nói về ông? Rằng ông thách đấu súng với một kẻ đã nhục mạ ngôi sao Ava Gardner, rằng ông đã cứu nhà văn Dos Passos thoát khỏi bộ sứng một con bò tót ở xứ Andalousie, rằng ông đã giải phóng khách sạn Ritz ở Paris khi cầm đầu một đội quân đánh thuê, rằng ông đã đầu têu cho cái trò mất dạy "Tàu thủy, nhậu nhẹt, nhà thổ, dê đực..." Hemingway chính là mặt trái của huyền thoại về ông. Ông là nhà văn, người không ngớt tuyên bố: "Tôi thích người ta phân tích tác phẩm của tôi hơn là gặm nhấm đời tư của mình". Evely Waugh, người có bộ răng cứng, nhưng đã tìm ra những lời đúng: "Đằng sau những sự phách lối, những lời nguyền rủa, những nắm đấm, đã lộ ra một ý nghĩa cơ bản của tinh thần hiệp sĩ: Sự kính trọng phụ nữ, bênh vực kẻ yếu và ý thức danh dự". Những kẻ dèm pha ông đã tìm thấy ở ông một cái gì đó không thể khoan dung: Vấn đề đạo đức. 40 năm sau khi ông mất, không phải bao giờ người ta cũng tha thứ cho ông về chuyện đó.


Về cái chết của ông, một người bạn của ông, Aaron E.Hotchner, một nhà văn, đã kể lại những ngày cuối cùng của Hemingway và về lý do ông muốn chấm dứt cuộc đời. Hotchner nói: "Người ta thực sự không thể trả lời câu hỏi này. Bởi lẽ không thể tách rời tình thế khách quan ra khỏi tâm trạng của ông lúc bấy giờ. Một trong những yếu tố quan trọng là một loạt những cú chạy điện trị liệu đối với ông. Lúc bấy giờ, việc ứng dụng môn trị liệu bằng chạy điện còn rất sơ khai, tôi không hiểu là những nhân viên kỹ thuật thực hành chuyện đó có thật nắm vững hay không". Đấy là một hàng thịt về mặt tâm thần. Nhưng những năm kinh hoàng nhất là những yếu tố cuối cùng. Sức sống đã lìa bỏ ông. Và ông có những toan tính tự tử. Ông có ý định nhảy xuống từ máy bay rồi ngay sau đó lợi dụng việc bạn bè cho là ông đang ngủ say đã lại định nhảy ra cửa sổ trên cùng chiếc máy bay đó. Ông thường bảo: "Những người Tây Ban Nha hiểu rằng người ta phải sống cuộc đời mình và khi không còn tìm thấy niềm vui sống thì cần chất dứt đi". Đấy là điều mà Hemingway đã làm.

CÓ NHỮNG NHÀ VĂN NHƯ THẾ - HÀ VINH - VƯƠNG TRÍ NHÀN - NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

Ernest Hemingway (2)


ÔNG GIÀ RÂU TRÊN BIỂN CẢ CHỮ NGHĨA
Trần Mạnh Hảo

Hemingway lao vào cuộc đời như một võ sĩ đấm boxe lao ra trường đấu. Mà quả thực, có lúc, ông nhà văn kỳ lạ này thuở đầu đời đang trên tàu biển sang châu Âu cùng người vợ thứ nhất Hadley, đã tổ chức một trận đấu quyền anh, tự mình lao ra làm đấu sĩ để lấy ít francs giúp đỡ một cô gái bị bỏ rơi. Lúc đã thành danh, có khi ông thỉnh thoảng nổi máu yêng hùng, còn nhảy phóc ra từ bàn nhậu, phanh áo khoe bộ ngực lông lá đầy nam tính rồi thách đấu một tên chó chết nào đó, hoặc đấm những cú trời giáng vào khoảng không cảnh cáo thế gian, hoặc ghi vào mặt thằng cha nào đám xúc phạm ông một vài vết bầm tím gọi là...nhớ đời. Hemingway cuồn cuộn và ào ạt như sông Mixixipi hồng hộc sóng gió, hồng hộc thở ra biển tất cả nguồn cơn vừa phô bày, vừa bí ẩn của nước Mỹ. Có khi ông dàn trải đời mình thành mênh mông như thảo nguyên Chicago ngựa chạy gãy chân không thấu. Có khi ông đùn đẩy đời mình lên thành gò đống, chót vót như đỉnh núi Kilimanjaro, mượn linh hồn con báo mà chết muôn đời trên đỉnh tuyết mây trời vọng tưởng. Cái gì của Hemingway cũng tột cùng. Hemingway tán gái. Hemingway đấm boxe. Hemingway túy ông. Hemingway mê cuồng với đấu trường bò tót. Hemingway săn tê giác và sư tử Phi châu. Hemingway lao sùng sục ra biển Cuba câu cá kiếm. Hemingway viết văn. Hemingway vong thân. Hemingway dấn thân. Hemingway lôn luôn coi Phiden Castro là thần tượng và là bạn thân thiết của nhà cách mạng Cuba này. Hemingway mê mẩn nước Mỹ và ngán nước Mỹ tới tận cổ. Hemingway lẩn thẩn với hư vô...Một cuộc đời 62 tuổi như ông, dù có chia ra hàng chục cuộc đời khác cũng đều mãnh liệt và cùng tận hết mình. Có thể nói, Hemingway-một nhà văn rất Mỹ, từ cuộc đời đến tác phẩm chính là hình ảnh của nước Mỹ thu nhỏ, của một nước Mỹ đam mê và rồ dại, kiêu hùng và bi lụy, tự do và trầm cảm, chếnh choáng và hư vô...

Cùng với Chúa Trời, bò tót, sư tử, cá kiếm, năm người đàn bà có tên và không tên khác đã nhào nặn nên thể xác và tâm hồn Hemingway. Đầu tiên là Grace Hall - mẹ ông, một người đàn bà Anh mắt xanh xinh đẹp, cao lớn, tươi tắn và nồng nàn như bình nguyên nước Mỹ, một giáo viên dạy nhạc tại North Oak Park đã truyền vào ông cả tâm hồn nghệ sĩ đầy mơ mộng, lúc nào cũng bàng bạc như sương và véo von như chim chóc. Cha ông - Ed Hemingway, một bác sĩ y khoa cao lớn, đẹp trai, một tay chơi mê câu cá, mê săn bắn đã "chim" được người phụ nữ âm nhạc này ngay trong trường trung học. Khi Ernest vừa sinh ra, mẹ ông đã viết vào nhật ký những dòng như lời tiên tri về về đứa con trai ngỗ ngược và thiên tài sau này như sau :"Các con chim cổ đỏ hót những bài ca ngọt ngào nhất để chào mừng người viễn khách tí hon đến với thế giới xinh đẹp này". Quả thật, Ernest suốt đời là viễn khách trên quê hương mình, là viễn khách của thế giới, viễn khách của những người đàn bà chết mê chết mệt vì ông, viễn khách trong chính bản thân mình, viễn khách của cái chết và hư vô. Cũng quả thật, cái nhìn của người mẹ đã xuyên suốt cuộc đời ái tình sôi nổi như bão giông sấm chớp của người con trai khi tiên đoán về "Các con chim cổ đỏ " châu tuần quanh người đàn ông cao lớn tới gần hai thước, ngực rộng, vai to, râu hùm hàm én, đẹp trai và chịu chơi vào loại nhất nước Mỹ này. Một con chim cổ đỏ, mỏ đỏ đầu tiên mà Ernest vồ được khi chàng nằm điều dưỡng do bị thương ở chân tại Milan nước Ý năm 1918, lúc mới 19 tuổi là nàng điều dưỡng viên Agnes Hannah Von Kurowsky- hơn chàng gần 10 tuổi. Trong 18 cô điều dưỡng viên đến từ Mỹ xinh như mộng, Ernest đã chọn nàng Agnes Hannah lớn tuổi nhất đám, một nàng xinh tươi, tóc nâu sẫm, có mắc liếc đa tình và khóe cười lúng liếng có thể làm nghiêng lệch cả cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Chàng Ernest lao vào mối tình đầu như con sư tử Phi châu lao vào con sơn dương. Anh chị yêu nhau tưởng có thể sập bệnh xá Croce Rossa Americana đóng tại Milan vẫn còn nằm trong tầm đại bác của quân Áo. Hemingway trong đêm tối chiến tranh nóng nực, dám dũng cảm một mình lao lên cõng một thương binh đang hấp hối người Ý giữa trận tiền và đã hưởng trọn một tràng súng máy của quân Áo vào cẳng chân, khiến cả hai cùng gục xuống trong vũng máu. Từ chuyện dám hi sinh cứu đồng đội này, đã đưa chàng trai trẻ Mỹ từ địa ngục chiến tranh đến với thiên đường có tên là Agnes Hannah tóc nâu sẫm kiều diễm như quà tặng mỹ miều của số phận. Tình yêu trong chiến tranh phải chia lìa vội vã. Chàng phải về Mỹ vì bị thương đi cà nhắc. Còn nàng ở lại Milan tiếp tục băng bó vết thương thể xác và tâm hồn cho những chiến binh thoát chết khác, những Ernest khác. Về Mỹ ngày nào Ernest cũng viết một lá thư cho người tình Hannah nhưng chẳng có hồi âm. Hóa ra, Agnes Hannah đã quên chàng Ernest bé bỏng miệng còn thơm mùi sữa để đú đởn với một tên sĩ quan người Ý đa tình chết tiệt nào đấy. Ernest thất tình như rồ dại. Chàng nguyền rủa nàng - vị nữ thánh của mối tình đầu chính ra chàng phải tôn thờ mãi mãi thì lại đi hận nàng hơn hận quân Áo tí nữa đã xơi tái một cẳng chân mình. Lần đầu tiên yêu và lần đầu tiên bị phản bội, Ernest đã nếm chén đắng của sự thất tình. Ernest đã thề giết chết Agnes Hannah trong tâm hồn mình để rồi làm cho nàng thành bất tử trong một cái tên khác là Catherine Barkley-nhân vật nữ chính trong cuốn tiểu thuyết đã đưa ông lên hàng những văn hào lớn nhất nước Mỹ và thế giới : "Giã từ vũ khí " xuất bản năm 1929. Hemingway hóa thân vào nhân vật Federic Henry để làm sống dậy cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, mối tình thứ nhất, nước Ý thứ nhất, sự rồ dại và đam mê thứ nhất của đời ông và của nhân loại. Tình yêu đẹp tới mức phi lý của Henry và cô y tá Catherine hiện lên lồng lộng như là sự phản đề của cuộc chém giết tàn khốc có tên là chiến tranh. Catherine cuối cùng đã không chết ở chiến hào mà chết bởi tạc đạn tình yêu : chết trong cuộc sinh nở. Thế mà năm 1932, Hemingway điên tiết lên, đã toan tìm đấm vỡ mõm gã đạo diễn để cho Catherine không chết trong phim "Giã từ vũ khí", trái với cái chết của nàng trong tiểu thuyết. Catherine đã chết bởi tình yêu. Nhưng tình yêu này bởi chiến tranh mà sinh ra. Chúng ta có thể "Giã từ được vũ khí" nhưng không thể nào giã từ được tình yêu và nỗi chết. Suốt cuộc đời cuồng nhiệt sống và cuồng nhiệt viết của mình, Hemingway đã bị tình yêu và cái chết, bị những người đàn bà và sư tử Phi châu giằng xé về hai phía thiên đường và địa ngục. Cuốn tiểu thuyết "Mặt trời vẫn mọc " ra mắt năm 1926 của ông là tiếng thở dài của nước Mỹ, là mùi xú uế của cả một thế hệ bị chiến tranh bài tiết ra thành những hòn sống, những cục sống đi lang thang khắp châu Âu và bắc Mỹ như những hồn ma.

Sau thời kỳ vong thân, sau cú thất thần mất hết hồn vía của thế chiến thứ nhất, trước hiểm họa phát xít xuất hiện đe dọa nhân loại, Hemingway tỉnh thức, chợt như nhảy bổ ra từ chai rượu, nhảy bổ ra từ các cuộc câu cá, đi săn để sang Tây Ban Nha tham gia binh đoàn quốc tế bảo vệ nền Cộng Hòa non trẻ, chống lại nhà độc tài Franco. Tiểu thuyết "Chuông nguyện hồn ai "xuất bản năm 1940 là bài ca bi thương nơi cuộc dấn thân của một nhân loại mới ngây thơ và tốt lành, một nhân loại dám xé ngực mình, lấy trái tim làm vũ khí tiêu diệt cái ác. Hemingway đã khoác một y phục khác, một cái tên khác là chàng Rbert Jordan, một chiến sĩ tình nguyện người Mỹ đã đến Tây Ban Nha để chiến đấu bảo vệ nền Cộng Hòa. Trong tận cùng chết chóc, nước Tây Ban Nha hiện lên qua hình ảnh nàng du kích Maria, một thánh nữ đồng trinh của chiến tranh. Tình yêu của Jordan với Maria là tình yêu của một dấn thân này với một bơ vơ khác, là nghẹn ngào tỏ tình cùng nức nở. Tình yêu nào của văn chương Hemingway chừng như cũng là tình yêu của vết thương, tình yêu soi mình trong chiều sâu hút của một cái giếng trong suốt là nỗi chết. "Chết trong chiều nắng tà", cuốn tiểu thuyết ra mắt năm 1932 của Hemingway đã đưa nước Tây Ban Nha trưng ra với thế giới ở một gương mặt khác với nghi lễ thiêng liêng của thuật đấu bò. Đây là một tiểu thuyết bên ngoài tưởng sục sôi, tưởng gào thét điên dại vì việc đấu bò tót; nhưng thực ra đây là tiểu thuyết luận đề, Hemingway bàn về cái chết, một cái chết có vẻ ma thuật và kỳ bí như chính Tây Ban Nha mà suốt đời ngoảnh lại, nhà văn còn thảng thốt đến ngẩn ngơ.


Hemingway bị ba con vật : bò tót, sư tử, cá kiếm rình ông từ ba góc của một tam giác quỷ - đời sống; hệt như năm người đàn bà ông yêu từ Agnes Hannah đến bốn bà vợ của bốn thời kỳ kéo ông ra thành sợi dây thun của hoan lạc và đầy ải. Bốn "triều đại" nữ hoàng trị vì trên tâm hồn và chiếc giường của ông từ "triều " hoàng kim Hadley, qua Pauline, tới Martha rồi Mary Welsh và dừng lại "ở triều" thứ năm-triều đại của hư vô và chấm hết là khẩu súng săn shotgun. May mà trước khi đi tìm con báo trên đỉnh núi tuyết, Hemingway đã kịp ném linh hồn xuống biển Cuba để sinh ra kiệt tác "Ngư ông và biển cả". Cuốn truyện vừa này lần đầu được in trọn trên tờ Life và bán được 5 triệu bản trong vòng 48 tiếng đồng hồ để đạt được giải thưởng Pulitzer và giải Nobel năm 1954. Qua kiệt tác này, mới biết người khổng lồ của văn học phương Tây, một nhà văn Mỹ nhất lại mang một tâm hồn phương Đông, rất Phật và rất Lão Trang vậy. Ông già Santiago này chính là một tên gọi khác của Hemingway đã một mình lênh đênh trên chiếc thuyền câu đơn độc, suốt ba ngày đêm bị con cá kiếm vĩ đại mà ông vừa câu được lôi đi vào muôn trùng biển cả, đến nỗi tưởng như chính con cá kiếm kia đã câu được ông già. Cuộc vật lộn trong ba ngày chết đi sống lại kia của lão Santiago chính là cuộc vật lộn của ông già râu Hemingway suốt một đời lênh đênh và cô đơn tới cùng tận trên biển cả chữ nghĩa. Con cá kiếm nặng tới sáu, bảy tấn, dài và lớn hơn chính chiếc thuyền câu, một sinh vật mạnh và đẹp đến mê cuồng của biển cả khiến chợt nhìn thấy nó, lão Santiago đã rợn da gà vì choáng ngợp. Qua nhân vật Santiago khi con cá kiếm ngoài hành tinh đến cắn câu, chừng như ông già râu Hemingway đã ngó thấy hư vô, hay chính từ phút đó, hư vô đã câu được ông già và lôi đi tới đầu mút của thế giới văn học ? Đằng sau con cá kiếm - linh hồn biển cả kia, ông lão kép Santiago-Hemingway này chừng như nhìn thấy tất cả đàn bà trên thế giới hợp lại và lôi ông đi vào siêu hình tình yêu, siêu hình sự chết. Không, cuộc chiến đấu vĩ đại giữa một nhân loại cô đơn, bé nhỏ, yếu ớt và một thiên nhiên gầm thét, hung tợn tới vô cùng qua bàn tay rách nát và thân thể rớm máu vì cuộc giằng co sống chết của lão Santiago với con cá kiếm, Hemingway, nhà nhân đạo chủ nghĩa đã mang tới một thông điệp :" Con người không được sinh ra để chịu thất bại. Một con người có thể bị hủy diệt nhưng không bị đánh bại". Khi chỉ còn cách cái chết một gang tay, nhờ sức mạnh "không bị đánh bại" ấy, trong rốn thẳm tuyệt vọng, lão Santiago đã phóng ngọn lao cuối cùng của thế giới và giết được hung thần cá kiếm. Chính là dòng suối máu của con khủng long này phun ra biển cả đã mời gọi hàng đàn cá mập kéo tới. Chỉ trong nháy mắt, bọn Pônpốt-Iêngxari này của biển cả đã chén sạch sành sanh thành quả sống chết của ngư ông. Cuối cùng, lão Santiago kéo lên bờ một bộ xương cá kiếm vĩ đại nhất thế giới- một bộ xương của siêu hình tôn giáo. 


Vâng, chính là đàn cá mập nada ( hư vô - tiếng Tây Ban Nha Hemingway hay dùng) được biển cả phái tới Ketchum, sáng chủ nhật ngày 2-7-1961 đã "vồ" được đại văn hào bằng khẩu súng săn hai nòng shorgun. Chính từ khẩu súng này, Hemingway đã từng săn được voi, sư tử, tê giác, báo và thú rừng Phi châu. Lần cuối cùng, ông đã săn được chính bản thân mình bằng một phát đạn tự bắn vào đầu. Không có gì giết nổi con người này kể cả chiến tranh, cả bệnh viêm gan vì rượu, cả hai lần rớt máy bay và nhiều lần bị tai nạn xe hơi- trừ chính bản thân ông. Một lần nữa, Hemingway lại lên đường đi câu con cá kiếm của Chúa Trời ở bên kia thế giới. Ông đã bị hư vô vồ mất và lôi đi trên biển cả chữ nghĩa tới muôn đời. Trước đó, Hemingway đã vồ được vĩnh cửu; hệt như con báo Phi châu đã vồ được đỉnh núi tuyết Kilimanjaro, tìm được "Một nơi sạch sẽ và sáng sủa" nhất thế gian để chết và để cứu rỗi sự vĩnh hằng của cái đẹp đang bị thế giới trần tục này săn đuổi .,.

Đã in trong tập : “ Những vì sao văn học” của Trần Mạnh Hảo-NXB Văn Học 2004
http://www.art2all.net/tho/tho_gh/tmh/hemingway.html