Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

Văn hóa Bắc Mỹ (2)

Cá tính sáng tạo trong văn chương nghệ thuật Mỹ

Đạo diễn điện ảnh huyền thoại
David Llewelyn Wark Griffith

Trên lĩnh vực văn hóa, năng lực sáng tạo Mỹ thể hiện rõ nhất ở nghệ thuật điện ảnh. Được ra đời ngay từ cuối thế kỉ XIX, điện ảnh Mỹ đã nhanh chóng trở thành một trong những nền điện ảnh hàng đầu thế giới cả về số lượng phim và chất lượng nghệ thuật.

Làm nên thành công của điện ảnh Mỹ, ngoài kỹ xảo điện ảnh, nội dung hấp dẫn, không thể không nói đến diễn xuất của những diễn viên trẻ tài năng, đặc biệt là diễn viên chính. Ngược dòng lịch sử điện ảnh Mỹ, có thể thấy trong mỗi giai đoạn phát triển đều có những sáng tạo độc đáo. Tên tuổi của Eadweard Muybridge gắn liền với những hình ảnh "chuyển động" đầu tiên chụp ngựa đang phi nước đại. Việc phát minh ra máy chiếu phim (kenetoscope) của Thomas Alva Edison đã góp phần đáng kể thúc đẩy điện ảnh ra đời. Đầu năm 1910, đạo diễn huyền thoại D.W.Griffith được công ty Biograph Company cử đến bờ biển miền Tây nước Mỹ cùng với đội ngũ diễn viên nổi tiếng của ông như Blanche Sweet, Lillian Gish, Mary Pickford và Lionel Barrymore với nhiệm vụ xây dựng cơ sở điện ảnh mới ở đây. 
Họ bắt đầu thực hiện các bộ phim ở một khu đất trống gần phố Georgia Street thuộc Los Angeles. Để mở rộng xưởng phim, công ty đã quyết định chuyển về một làng nhỏ cách Los Angeles vài dặm về phía bắc, họ gọi khu đất mới này bằng cái tên "Hollywood". Đến năm 1915, Hollywood bắt đầu khẳng định được vị trí đầu đàn của điện ảnh Mỹ với bộ phim nổi tiếng Birth of a Nation của Griffith. Với sức sáng tạo lớn của người Mỹ, trong 100 năm qua, kinh đô điện ảnh Hollywood đã có gần như tất cả các ngành quan trọng của điện ảnh như biên tập, kỹ xảo, hậu sản xuất và ánh sáng. Vào những năm 40 của thế kỷ trước, mỗi năm Hollywood sản xuất trung bình 400 bộ phim, bao gồm hầu hết các thể loại như: phim hành động, phim giả tưởng, phim hài, phim trinh thám, phim hoạt hình...  với công nghệ sản xuất tiên tiến nhất, cho ra đời phim nhựa, phim DVD, phim 3-D. Công nghệ phim 3-D không những sản xuất ra các phim mới mà còn có thể chuyển những phim cũ trước đây thành phim 3-D. Họ chỉ cần vài tháng để chuyển sang phim nổi các tác phẩm trứ danh như Nhà phù thủy xứ Oz, Casablanca, Chiến tranh giữa các vì sao King Kong - phiên bản mới nhất của Peter Jackson.




Bộ phim My Left Foot (1989) - 
chuyển thể từ tự truyện của nhà văn
Christy Brown
Nhờ sáng tạo không ngừng nên một điều hiển nhiên là điện ảnh Hollywood có sức chinh phục và hấp dẫn toàn thế giới, đồng thời thu hút nhiều tài năng điện ảnh thế giới đến làm việc không kể màu da, sắc tộc, từ đó tạo cho các bộ phim có nhiều phong cách nghệ thuật và diễn xuất đa dạng. Điện ảnh Mỹ đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận được, song không phải không có mặt trái. Một thời Hollywood đã trở thành một tụ điểm chính trị, những ông trùm của các xưởng phim đã sử dụng quyền thế của mình để xuất xưởng những bộ phim cổ xúy cho chủ nghĩa thực dân và khuấy động nên một "mối họa đỏ". Tuy nhiên, nhìn từ góc độ cá nhân luận Mỹ tích cực, Hollywood là mảnh đất màu mỡ cho các nhà làm phim sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật được cả thế giới biết đến và đánh giá cao. Nhiều bộ phim ca ngợi tình mẫu tử, đề cao nghị lực sống của những người bị xã hội ruồng bỏ, khẳng định quyền con người... đã được các nhà làm phim khai thác dưới nhiều góc độ, rất tinh tế nhưng cũng thật gần gũi với cuộc sống. Vượt lên trên tất cả là khát vọng tự khẳng định cá nhân con người.

Bộ phim Bàn chân trái của tôi (My Left Foot - 1989) được chuyển thể từ cuốn tự truyện cùng tên của nhà văn Christy Brown, một người mắc bệnh bại não bẩm sinh nhưng rất giàu ý chí và nghị lực. Cuốn tự truyện này được Christy Brown viết vào năm 22 tuổi, lấy bản thân ông làm hình mẫu để kể về một thanh niên đã chiến thắng số phận nhờ nghị lực phi thường.

Michael Other, một vận động viên bóng rổ da màu trong phim Cổ tích giữa đời thường (The Blind Side - 2009); Andrew Beckett, một bệnh nhân HIV trong phim Philadelphia (1993)... đều là những sáng tạo nghệ thuật có nguyên mẫu từ cuộc sống đương đại Mỹ, phản ánh ý chí vươn lên, chiến thắng số phận, chiến thắng hoàn cảnh.

Một trong số những thể loại phim ăn khách nhất và thể hiện tính sáng tạo trong nghệ thuật giải trí Mỹ là thể loại phim miền Tây (Western). Đó là một định nghĩa của người Mỹ nhằm để chỉ các tác phẩm điện ảnh về miền Tây nước Mỹ thế kỷ XIX. Có thể coi đây là "đặc sản" Mỹ. Thể loại phim về miền Tây có một số tiểu thể loại như: phim miền Tây kiểu cổ điển (Classical Western), phim sử thi miền Tây (Epic Western), phim miền Tây kiểu bắn giết (Shoot 'em up Western), phim miền Tây kiểu Spaghetti (Spaghetti Western) - loại phim được sản xuất ở Italia, phim miền Tây kiểu cải biên (Revisionist Western - mang màu sắc u ám, đề cao vai trò của người phụ nữ và bên vực người da đỏ bản địa, người Mexico), phim miền Tây đương đại (Contemporary Western), nổi tiếng với loạt phim đoạt giải Oscar 2005 - Brokeback Mountain.

Các bộ phim về miền Tây thường mô tả cuộc chinh phục những vùng đất còn hoang vu, hay là công cuộc khai hóa nền văn minh hoặc lấn chiếm vùng lãnh thổ vốn thuộc về những người dân da đỏ bản địa ở vùng biên giới của người Mỹ. Miền Tây trong những bộ phim này được biết đến như một xã hội coi trọng danh dự con người hơn là pháp luật. Câu chuyện về những chàng cao bồi (chăn bò) và những tay giết người thuê là chủ đề chính trong phim về miền Tây.

Ảnh hưởng văn hóa của Hollywood là rộng khắp. Tại 22 nước phát triển nhất, trên 85% số phim được chiếu nhiều nhất là của Mỹ. Ở những nước như Brazil, Anh, Ai Cập, Argentian thì phim Mỹ chiếm cả 100%). Ngoài ra, 44 trong số 55 bộ phim thành công nhất từng được trình chiếu tại Đức đều được quay ở Hollywood.

Vì vậy, chẳng lấy gì làm lạ khi hàng năm tại Liên hoan phim Cannes, người hâm mộ thường bình phẩm với nhau rằng bộ phim được ưa thích nhất có thể giành giải Cành cọ vàng thường là phim chống Mỹ... nhưng lại sản được sản xuất từ Mỹ. Phim Fahreinheit 9/11 của Michael Moore (2004) là một ví dụ điển hình nhất. Vì thế có người đã thốt lên: "Người Mỹ đã chiếm lĩnh tiềm thức chúng ta". Câu nói này vốn là lời của một nhân vật trong phim Những ông hoàng của đường phố (Kings of the Road) của đạo diễn Wim Wender. Lời nhận xét đó vừa hàm ý sự ngưỡng mộ vừa có ý phê phán.

Thái độ mâu thuẫn của Wender đối với "mẫu quốc" điện ảnh nói lên những cảm nhận chung của các "thuộc địa". Người Mỹ cũng có chung cảm nhận đó. Thậm chí có lúc người ta cho đó là nguy cơ "xâm lăng" hoặc "bành trướng" văn hóa Mỹ.

Bất chấp sự sa sút của nhiều ngành kinh tế Mỹ, Hollywood vẫn giữ được ưu thế thương hiệu trong lĩnh vực giải trí. Giữ được ưu thế đó một phần là do sức hấp dẫn thực sự tổng hợp chất lượng gắn với những giát trị trong sáng, đó là chủ nghĩa cá nhân và cao hơn thế là chủ nghĩa nhân văn, quyền tự do đi lại, sự vận động đi lên, mưu cầu hạnh phúc (tinh thần hay vật chất) và tinh thần mạo hiểm, ý chí vượt lên số phận và môi trường sống để khẳng định cá nhân con người.

VĂN HÓA BẮC MỸ TRONG TOÀN CẦU HÓA -Lương Văn Kế (chủ biên) - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Văn hóa Bắc Mỹ

Cá tính sáng tạo trong văn chương nghệ thuật Mỹ

Các tác phẩm văn chương và nghệ thuật của người Mỹ mang dậm dấu ấn sáng tạo cá nhân. Nhân vật của các tác phẩm thành công đều đầy cá tính, góc cạnh và không thể nhầm lẫn. Tất cả sự sáng tạo tuyệt vời và đa dạng ấy đã tạo ra sức mạnh chinh phục con tim và khối óc của hàng tỉ người trên khắp hành tinh. Tất cả đều là nhờ vào năng lực, niềm hứng thú sáng tạo cá nhân và khả năng hợp tác với nhau của nhân dân Mỹ. Sáng tạo và đổi mới, cạnh tranh và phát triển là những yếu tố gắn kết với nhau và nổi bật trong nền văn hóa Mỹ. Tất cả đều dựa trên chủ nghĩa cá nhân tích cực của xã hội Mỹ. Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuât, tinh thần sáng tạo cá nhân của người Mỹ cũng mạnh mẽ không khác gì sáng tạo của họ trong kinh tế, khoa học và chính trị.

Nhà thơ Ralph Waldo Emerson
Trong tiểu luận Thi ca (The Poet), nhà thơ Ralp Waldo Emerson, tác giả có ảnh hưởng lớn nhất đối với văn học lãng mạn Mỹ, khẳng định “Con người ta sống bằng chân lý và có nhu cầu tự biểu hiện. Trong tình yêu, trong nghệ thuật, trong lòng tham, trong chính trị, trong lao động, trong vui đùa, chúng ta học để thốt ra những bí ẩn đau đớn của chúng ta. Con người chỉ là một nửa của mình, nửa kia chính là sự diễn đạt tư tưởng của anh ta.”

Sự phát triển cái tôi trở thành một chủ đề quan trọng; trong đó sự tự nhận thức là phương pháp cơ bản. Nếu theo lý luận của chủ nghĩa lãng mạn, cái tôi của con người và tự nhiên là một, thì sự tự biết mình không phải là mục đích hoàn toàn vị kỷ mà là một cách nhận thức có hướng mở ra cùng toàn thể vũ trụ.

Khi cái tôi của một người cùng hợp nhất làm một với toàn nhân loại thì khi ấy mỗi cá nhân có một bổn phận đạo đức trong việc cải tạo những bất bình đẳng trong xã hội và làm vơi đi nỗi khổ đau của con người. Bản ngã – cá tôi được các thế hệ trước cho là đầy tính vị kỷ đã được định nghĩa lại. Những từ kép mới với ý nghĩa tích cực đã xuất hiện: “tự nhận thức”, “tự biểu hiện”, “tự tin”. Khi cái tôi chủ quan đơn nhất trở nên quan trọng thì lãnh địa tâm lý cũng trở thành quan yếu. Những kỹ thuật và hiệu quả mang tính nghệ thuật đặc biệt được phát triển để khơi dậy những trạng thái tâm lý cao cấp.

Nhà văn James Fenimore Cooper
Cá tính sáng tạo cảu người Mỹ thôi thúc các nhà văn tìm kiếm cách thể hiện mới, giải phóng cho văn học Mỹ khỏi mối liên hệ còn sót lại với nước Anh được thể hiện qua sự bắt chước và mô phỏng thái quá những hình mẫu văn học cổ điển hoặc theo kiểu Anh. James Fenimore Cooper tạo ra một truyền thuyết riêng cho nước Mỹ bằng việc sáng tạo ra Natty Bumppo, nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm văn học của ông, đại diện cho nhân sinh quan của ông – một người dân vùng biên giới và là “một nhà quý tộc bẩm sinh” theo chủ nghĩa Jefferson. Ngay từ năm 1823, trong tác phẩm “Những người tiên phong” (Pioneers), Cooper đã bắt đầu tưởng tượng ra nhân vật Bumppo. Natty là người dân vùng biên giới được biết đến đầu tiên trong văn học Hoa Kỳ, là nguyên mẫu văn học đầu tiên của vô số các nhân vật cao bồi và các anh hùng tại những khu rừng hẻo lánh được hư cấu sau này. Nguyên mẫu của nhân vật này là người định cư Daniel Booner, một người Quaker như Cooper. Nhân vật này là một người theo chủ nghĩa cá nhân lý tưởng – người luôn tốt đẹp hơn xã hội mà anh ta bảo vệ. Nghèo khổ và đơn độc nhưng lại vô cùng trong sáng, nhân vật này là chuẩn mực cho các giá trị đạo đức và là nguyên mẫu cho nhân vật Billy Bud của Herman Melville và nhân vật Huck Finn của Mark Twain sau này.

Bìa tiểu thuyết
The Last of the Mohicans
của nhà văn James Cooper
Trong Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (The Adventures of Tom Sawyer) và Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (The Adventures of Huckleberry Finn) của Mark Twain, người đọc cảm mến Tom và Huck ở đức tính thông minh, dũng cảm, ở lòng khao khát được sống tự do, vượt lên trên xã hội bất công, ham chuộng tiền bạc để hướng đến những lý tưởng cao đẹp.

Mỗi một giai đoạn của văn học, các nhà văn Mỹ đều ghi những dấu ấn không phai mờ. Họ luôn luôn coi mình là những nhà thám hiểm đơn độc nằm bên ngoài xã hội và các quy ước của nó. Thuyền trưởng Ahab của Herman Melville hay Huck Finn của Mark Twain là những nhân vật được sáng tạo theo cảm quan như vậy. Họ tự mình đối măt với hiểm nguy, thậm chí đối mặt với cái chết trong hành trình tự khám phá mang tính siêu việt của họ.

Nhà văn Herman Melville
Trước một môi trường, một hiện thực hoàn toàn mới, đường biên giới luôn thay đổi đến mức thuật ngữ “biên cương” (frontier), “tinh thần biên cương” (frontier spirit) thường xuyên xuất hiện như một phần cuộc sống thường nhật. Tốc độ công nghiệp hóa đất nước đến chóng mặt ở nửa cuối thế kỷ XIX, những biến đổi nhanh chóng của nước Mỹ trong suốt thể kỷ XX luôn có một sức ép dữ dội thôi thúc các nhà văn tìm ra một hình thức, nội dung và cảm xúc văn học có tính xác thực cao. Nhân vật Jay Gatsby trong tiểu thuyết Gatsby vĩ đại (The Great Gatsby) của Francis Scott Key Fitzgerald ấp ủ giấc mơ Mỹ của một người đàn ông tự do, ông già Santiago trong Ông già và biển cả (The Old Man and The Sea) của Ernets Hemingway vẫn là những sáng tạo nghệ thuật về con người và khát vọng của cá nhân con người.

Sự thăng hoa của chủ nghĩa cá nhân đại chúng – cũng như là các quyền dân sự và các phong trào chống chiến tranh của thập kỷ 1960 – đã tạo thêm sức mạnh cho những tầng lớp không có tiếng nói trước đây. Các nhà văn khẳng định được bản chất bên trong sâu xa của họ, cũng như kinh nghiệm cá nhân và tầm quan trọng của kinh nghiệm cá nhân ẩn chứa trong tầm quan trọng của cả nhóm xã hội gắn liền với cá nhân mỗi người. Hầu hết các nhà văn hiện đại đều khẳng định một giá trị đồng nhất trong tính cá nhân trong văn học.

VĂN HÓA BẮC MỸ TRONG TOÀN CẦU HÓA – Lương Văn Kế (chủ biên) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Miguel Asturias

Nếu anh viết truyện chỉ để giải trí thì hãy đốt chúng đi! Hãy thành kính nghe thông điệp này, vì nếu anh không đốt thì truyện của anh cũng sẽ bị xóa bỏ trong kí ức của nhân dân, nơi mà các nhà thơ nhà văn đều mong có chỗ cho mình. Hãy thử tưởng tượng xem, xưa nay có bao nhiêu người đã viết để giải trí! Bây giờ còn ai nhớ đến họ nữa? Ngược lại, thật là dễ dàng nhắc lại tên của những người trong số chúng ta đã viết để làm chứng nhân. - M. Asturias


Nhà văn Guatemala Miguel Ángel Asturias
Giải Nobel văn chương năm 1967


Miguel Asturias sinh tại thủ đô Guatemala, trong một gia đình tri thức. Ông là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà ngoại giao nổi tiếng người Guatemala, tác giả của cuốn tiểu thuyết bất hủ: Ngài tổng thống (The President, 1946). Ông được xem là người góp phần quan trọng trong việc đưa văn học Mĩ Latin vào dòng chảy chung của văn học thế giới. Suốt cuộc đời, Asturias gần như phải sống lưu vong ở nước ngoài vì ông luôn bất hòa và cực lực phản đối các thế hệ độc tài ở Tổ quốc mình.

Asurias là con của luật sư Ernesto Asturias, một người mang tư tưởng nhân văn tiến bộ. Mẹ ông là một giáo viên. Do bất đồng với tổng thống đương nhiệm Estrada Cabrera, nên Ernesto từ chức công chứng viên và đưa gia đình về sống ở Salamá, nơi có trang viên của gia đình đằng nội. Salamá là vùng đất thơ mộng, đầy ắp những câu chuyện thần thoại, cổ tích. Miền đất đã nuôi dưỡng tâm hồn văn nhân của Asturias ngay thuở thiếu thời.

Lên chín tuổi, 
Asurias  cùng cha mẹ trở lại sinh sống tại ngoại ô thủ đô. Bố Asurias  hành nghề nhập khẩu đường và bột. Thuở bé, Asurias  được chứng kiến nhiều cảnh thăng trầm của gia đình và xã hội.

Năm 1917, 
Asurias  vào đại học. Ông theo học ngành y một năm, sau đó chuyển sang nghiên cứu luật. Với tư cách là đại diện cho Hiệp Hội Sinh viên các trường đại học, ông đến Honduras và El Salvador. Năm 1921, Asurias  được cử làm một trong những phát ngôn viên của Guatemala đến Mexico dự Hội nghị sinh viên quốc tế.

Năm 1923, 
Asurias  nhận bằng cử nhân luật tại Đại học San Carlos. Ông sang châu Âu để tiếp tục sự nghiệp học tập, nghiên cứu. Mặc dù ước muốn của cha ông là hướng ông theo ngành kinh tế nhưng Asurias  lại theo học ngành nhân chủng học dưới sự dạy dỗ của Georges Raymond tại đại học Sorbonne ở Paris từ năm 1923 đến 1928. Thời gian nàyAsurias  bắt đầu dịch các tác phẩm của người Maya sang tiếng Pháp. Asurias  rất yêu thích và am hiểu văn hóa Maya. Ông cũng dịch nhiều tác phẩm của nền văn học này sang tiếng Tây Ban Nha. Bên cạnh việc dịch thuật, ông còn sáng tác thơ và truyện. Tác phẩm của ông thường phản phất chất hư ảo, huyền hoặc của nền văn hóa Maya. Asurias  sống ở Paris suốt mười năm.

Năm 1930, danh tiếng đến với 
Asurias  khi ông cho xuất bản cuốn Truyền thuyết Guatemala (Legends of Guatemala). Cuốn sách được ông kể lại dựa trên các truyền thuyết của người Maya cổ. Đây là những truyện cổ mang tính hoang đường, được viết theo lối thơ trữ tình Tây Ban Nha. Ba năm sau, Asurias hoàn thành cuốn Ngài tổng thống. Cuốn sách dẫu không được in do chủ đề kẻ độc tài Mĩ Latin được ông thể hiện tài tình, sắc nét nhưng nó vẫn được bí mật lưu truyền trong giới trí thức suốt 13 năm cho đến khi ra đời (năm 1946). Cuốn sách tái hiện sự hối lộ, tham nhũng lan tràn khắp đất nước. Cái ác, cái xấ hoành hành. Cánh sĩ quan quân đội thì suốt ngày chui đầu vào các nhà chứa hoặc hoạch định các âm mưu nham hiểm... Asurias đã hư cấ tội ác của chế độ độc tài đến mức huyền thoại.

Trở về Guatemala vào năm 1933, Asturias làm phóng viên cho một hãng truyền thanh. Những năm 1940, ông bước vào sự nghiệp ngoại giao và sống ở nhiều quốc gia trên thế giới. Từ năm 1945 - 1947, ông giữ nhiều chức vụ ngoại giao ở Mexico. Từ năm 1947 - 1952, 
Asturias ở Buenos Aires. Từ 1952 - 1953 ông sống ở Paris. Một năm sau, ông làm đại sứ tại El Salvador. Năm 1950, Asturias li dị người vợ đầu Clemencia Amado và cưới Blanche de Mora y Aruaho. Công việc ngoại giao của Asturias bị gián đoạn khi phe cánh hữu của Carlos Armas lên nắm chính quyền vào năm 1954, ông phải lưu vong ra nước ngoài.

Năm 1949, tác phẩm Người ngô (Men of Maize) của 
Asturias được in. Cuốn sách cho thấy sự gắn bó mật thiết giữa ông với truyền thống văn hóa Maya cổ đại. Maize, tiếng Tây Ban Nha maiz có nghĩa là ngô, chất liệu để Thượng đế khai sinh ra con người trong thần thoại Maya. Tác phẩm miêu tả cuộc nổi dậy của một bộ lạc da đỏ trong bầu không khí huyền ảo, ma thuật của người da đỏ.

Được xem là một trong những kiệt tác của 
Asturias, Người ngô được cấu trúc gồm sáu phần. Mỗi phần khai thác một khía cạnh tương phản trong tập quán của người da đỏ với xã hội đang hiện đại hóa và phát triển nhanh. Cuốn tiểu thuyết khám phá thế giới huyền ảo của các cộng đồng bản địa. Đề tài mà Asturias rất đam mê và nắm chắc. Nội dung sách tập trung vào cuộc nổi dậy của một bộ tộc da đỏ sinh sống nơi vùng rừng núi xa xôi, hiểm trở và đang đối đầu với nguy cơ bị quân đội chính phủ xóa sổ. Cốt truyện xoay quanh cộng đồng người ngô đó nơi đất đai của họ có nguy cơ bị tàn phá. Phần hai của cuốn tiểu thuyết tái hiện một khung cảnh khác thông qua việc giới thiệu nhiều nhân vật mới. Thế hệ người da đỏ tiếp theo tiếp xúc với các bậc tiên tổ trong quá khứ và họ đã đi đến quyết định nỗ lực tranh đấu để duy trì truyền thống của tổ tiên họ.

Câu chuyện bộc lộ thái độ phê phán của 
Asturias trước việc chủ nghĩa đế quốc phương Tây có thói quen thống trị và cưỡng bức các nền văn hóa Mĩ Latin và nhiều nơi khác trên thế giới đi theo văn hóa của mình. Asturias sử dụng sự hiểu biết rộng rãi của mình về văn học để kể câu chuyện dưới hình thức thần kì. Với cách tái hiện cuộc sống độc đáo đó nên ngay khi ra đời, các nhà phê bình không tỏ ra mặn mà lắm về nó.

Những năm 1950, 
Asturias bắt tay vào sáng tác tác phẩm Bộ ba Chuối (The Banana Triology), bao gồm: Dông tố (The Cyclone, 1950), Giáo Hoàng xanh (The Green Pope, 1954) và Mắt người đã khuất (The eyes of the Interred, 1960) tố cáo tội ác của Công ti hoa quả Hoa Kỳ. Năm  1956, ông cho in tập truyện ngắn Cuối tuần ở Guatemala (Weekend in Guatemala) đề cập đến sự can thiệp của Hoa Kì trong việc lật đổ chính phủ Arbenz năm 1954. Sau biến cố lịch sử này, ông sống ở Chile rồi sang Brazil làm phóng viên cho tờ Quốc gia của Venezuela. Năm 1966, tổng thống Julio Mendez lên nắm quyền, Asturias được cử làm đại sứ ở Pháp.
Những năm cuối đời, Asturias sống ở Madrid. Ông chết khi đang đi thỉnh giảng vào ngày 9-6-1974. Thi hài ông được mai táng ở nghĩa trang Cha Lachaise. Với tất cả những đóng góp to lớn cho dân tộc và cho nhân loại, Asturias được trao tặng giải thưởng Lê-nin về hòa bình vào năm 1966 và giải Nobel văn chương năm 1967.

Sau khi nhà văn qua đời, chính phủ Guatemala thành lập giải thưởng văn học mang tên Miguel Angel Asturias. Tên ông cũng được lấy đặt cho hai nhà hát quốc gia của Guatemal. Nhân loại nhớ đến ông với tư cách là người có niềm tin vĩnh hằng vào sự bất tử của văn hóa bản địa ở Guatemala. Văn học Mĩ Latin ghi nhận vị trí mở đường của ông cho nền văn chương khu vực.

CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO & Gabriel García Márquez - PGS.TS Lê Huy Bắc - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam