ĐI TÌM THỜI HIỆN ĐẠI
(diễn từ nhận giải Nobel)
Tư tưởng về cái Hiện Đại là một thứ phẩm của quan niệm về lịch sử như một quá trình liên tục, thẳng duột và không thể được lặp lại. Dù các ngọn nguồn của nó nằm ở trong Do thái Cơ đốc giáo, tư tưởng về cái Hiện Đại là một sự đoạn tuyệt với học thuyết Cơ đốc giáo. Cơ đốc giáo đã phá bỏ thời gian chu kỳ của những người theo đa thần giáo. Cơ đốc giáo quan niệm rằng lịch sử không bị lặp lại, nó có một khởi thủy và sẽ có chung cục; thời gian liên tục là thời gian trần tục của lịch sử, là sân khấu hành động của những người đã ngã xuống, nhưng bị nhồi nhét vào thời gian thần thánh, không có khỏi thủy cũng chẳng có chung cục. Sau ngày Phán xử cuối cùng, trên thượng giới cũng như dưới địa ngục, sẽ chẳng có tương lai. Trong cõi Vĩnh Hằng không xẩy ra điều gì vì tất cả đã hoàn thiện. Thắng lợi của con người đối với tương lai. Thời gian mới, thời gian của chúng ta là thời gian thẳng đuột như quan niệm của Cơ đốc giáo nhưng lại mở về vô hạn và không phân biệt với cái Hiện Đại. Thời gian của chúng ta là thời gian của lịch sử thế tục. Thời gian không thể quay trở lại và mãi mãi không kết thúc, nó đang tiến về không phải sự chung cục mà là về tương lai. Mặt trời của lịch sử được gọi là tương lai và tên gọi của phong trào hướng tới tương lai là Tiến Bộ.
Đối với Cơ đốc giáo, thế giới - hoặc giả như trước đây được gọi là hai năm mươi, đời sống trần gian - là một địa điểm thử thách: linh hồn bị tiêu tan hay được cứu rỗi trên thế giới này. Đối với quan niệm mới, chủ thể lịch sử không phải linh hồn cá nhân mà là loại người, lúc này được hiểu như là một toàn thể lúc khác lại được hiểu qua một nhóm được chọn làm đại diện cho loài người, ví như các quốc gia phát triển của phương Tây, giai cấp vô sản, chủng tộc da trắng hoặc bất kỳ một nhóm người nào. Truyền thống truyền thuyết đa thần giáo và ky tô giáo đã đề cao Con Người, sự hoàn thiện, toàn mỹ. Chúng ta yêu mến sự Thay Đổi: động lực của sự tiến bộ và khuôn mẫu của các xã hội chúng ta. Sự Thay Đổi có hai hình thức biểu hiện được tôn vinh: tiến hóa và cách mạng, bước đều và nhảy vọt. Cái hiện đại là mũi nhọn của vận động lịch sử, và là sự hiện diện bằng xương thịt của tiến hóa hay của cách mạng đó là hai mặt của sự tiến bộ. Cuối cùng sự tiến bộ được thực hiện nhờ hành động nhân đôi của khoa học và của kỹ thuật, được áp dụng cho sự thống trị giới tự nhiên và cho sự sử dụng các của cải bao la của nó.
Con người hiện đại, tự khăng định mình như là con người lịch sử. Một số xã hội khác lại muốn tự khẳng định mình bằng những giá trị và tư tưởng ngược lại với sự thay đổi: những người Hy Lạp đầu độc nữ thần Polis và hoàn cảnh xung quanh mà họ không biết đến sự tiến bộ, sự quay trở lại vĩnh viến khiến cho Seneca cũng như một số kẻ khắc kỷ khác phải mất ngủ, thánh Augustin tin rằng sự chung cục của thế giới là đáng sợ, thánh Tomas làm một thang bậc cho con cháu Đấng Sáng Thế. Những tư tưởng và niềm tin tôn giáo ấy cái nọ theo cái kia đều bị từ bỏ. Hình như tôi cũng thấy rằng điều đó đã bắt đầu xảy ra đối với tư tưởng về sự tiến bộ, và do đó đối với nhãn quan của chúng ta về thời gian, về lịch sử và về chúng ta. Chúng ta đang chứng kiến buổi chạng vạng tranh tối tranh sáng của tương lai. Sự chìm xuống của tư tưởng về cái Hiện Đại và sự thăng lên của một quan niệm rất lơ mơ như quan niệm "hậu hiện đại", chúng không chỉ là những hiện tượng từng tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật và văn học mà còn là khung cảnh trong đó chúng ta sống cuộc khủng hoảng các tư tưởng và niềm tin tôn giáo cơ bản từng lay động con người suốt hai thế kỷ nay. Về vấn đề này trong nhiều dịp tôi đã đề cập khá đầy đủ. Ở đây, tôi chỉ có thể làm một bản tóm lược ngắn gọn.
Thứ nhất, Quan niệm về một quá trình mở tới vô hạn và đồng nghĩa với sự tiến bộ liên tục đã bị cấm. Hầu như tôi chỉ cần dẫn ra điều mà tất cả chúng ta đã biết: của cải thiên nhiên là có hạn và một ngày nào đó sẽ cạn kiệt. Ngoài ra, chúng ta đã gây nên tổn hại không thể bù đắp nổi đối với môi trường tự nhiên và chính nó đang bị đe dọa. Mặt khác, các công cụ của sự tiến bộ - khoa học và kỹ thuật - đã chứng minh với một sự sáng tỏ đáng sợ rằng: chúng có thể đễ dàng trở thành công cụ phá hoại. Cuối cùng sự tồn tại của vũ khí hạt nhân là một sự phản bác của tư tưởng về sự tiến bộ lịch sử. Một sự phản bác mà chỉ có thể gọi là sự phá hủy thôi.
Thứ hai: Vận may của chủ thể lịch sử, tức là của tập thể nhân loại trong thế kỷ XX. Rất ít khi các dân tộc và các cá nhân phải chịu bao đau khổ như ở thế kỷ này: hai cuộc chiến tranh thế giới, các thể chế chuyên chế được thiết lập trên cả năm châu lục, bom nguyên tử cuối cùng là sự lan truyền của trại tập trung, một trong những công cụ tàn bạo và chết người nhất mà loài người được biết tới. Những đóng góp to lớn của kỹ thuật là không thể kể hết nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh giết chóc, tra tấn, trước sỉ nhục và hạ cấp con người và mốt số tổn thương khác từng khiến hàng triệu người vô tội phải chịu đựng trong thế kỷ chúng ta.
Thứ ba: Niềm tin trong sự tiến bộ cần thiết. Đối với cha ông chúng ta những đổ nát của lịch sử - hài cốt, chiến trường hoang phế, thành phố đổ nát - không từ chối lòng tốt căn bản của quá trình lịch sử. Trường bắn và chế độ độc tài, chiến tranh và sự bạo liệt của các cuộc đấu tranh dân sự là cái giá của sự tiến bộ, là đồng tiền bằng máu phải trả cho Thượng đế của lịch sử. Một Thượng đế ư? Phải, một Thượng đế, đó chính là lý lẽ được thần thánh hóa và phong phú, theo như Hegel nói. Lý trí vờ vĩnh của lịch sử đã bị bốc hơi. Trong chính sự thống trị của trật tự, bình ổn, hợp tác - trong các khoa học chính xác và trong vật lý học - đã xuất hiện trở lại vài quan niệm xưa cũ về tai biết và thảm họa. Sự nổi loạn rùng rợn khiến tôi nghĩ đến những nỗi kinh hoàng của năm một ngàn và những đau đớn của người Azteca vào cuối mỗi chu kỳ vũ trụ của họ.
Để kết thúc tôi xin nói về: sự đổ nát của tất cả những giả định triết học và lịch sử từng mưu toan sự hiểu biết các quy luật của sự phát triển lịch sử. Những môn đệ của chúng, những người tin rằng họ là chủ nhân những chìa khóa lịch sử, đã xây dựng những Nhà nước hùng cường trên những kim tự tháp xác người. Những xây dựng kiêu ngạo ấy, được mệnh danh là để giải phóng con người, đã nhanh chóng biến thành các trại giam khổng lồ. Hôm nay chúng ta đã thấy chúng đổ sụp. Không phải những kẻ thù tư tưởng mà chính là sự mệt mỏi và khát vọng tự do của các thế hệ mới đã lật đổ chúng. Phải chăng đó là cái kết chung cục của các lý thuyết không tưởng? Đúng hơn đó là cái kết cục của tư tưởng lịch sử như là một hiện tượng mà sự phát triển của nó được người ta hiểu rất rõ. Thuyết quyết định lịch sử đã là một bóng ma đẫm máu và đắt giá. Lịch sử là không thể được nhìn rõ vì chủ thể của nó, con người: là sự không quyết định trong tính cách rồi.
Sự ôn lại này cho thấy rằng rất có thể chúng ta đang ở vào giữa ngày chung cục của một giai đoạn lịch sử và ngày khởi thủy của một giai đoạn khác. Kết cục hay là sự thay đổi của Thời Hiện Đại? Thật khó lòng mà biết được. Tóm lại, sự sụp đổ các học thuyết không tưởng đã để lại một khoảng trống lớn không chỉ ở những nước mà tư tưởng đó đã được thử nghiệm và bị thất bại mà còn có ở những nơi khác từng có rất nhiều người tràn đầy nhiệt tình và hy vọng đón chào nó. Lần đầu tiên trong lịch sử con người được sống dưới một vận may của bầu trời tinh thần phong quang và không như trước sống dưới bóng tối của những thiết chế tôn giáo và chính trị vừa áp chế vừa an ủi chúng ta. Các xã hội là lịch sử nhưng không phải tất cả mọi xã hội đều được dắt dẫn bởi một tập hợp các niềm tin tôn giá và các tư tưởng metahistorie. Xã hội chúng ta là xã hội đầu tiên đã được chuẩn bị để sống mà không cần có một học thuyết hậu metahistorie. Những giá trị tuyệt đối của chúng ta - tôn giá và triết học, nhân chủng học và thẩm mỹ học không còn là của tập thể mà là của cá thể. Kinh nghiệm là nguy hiểm. Không thể biết nếu như các mối căng thẳng và mâu thuẫn của sự tư nhân hóa các tư tưởng, các kinh nghiệm, các niềm tin tôn giáo này, những thứ vốn thuộc về đời sống cộng đồng một cách truyền thống, trước đây liệu có làm tan vỡ tổ chức xã hội không. Lại một lần nữa con người sẽ có thể bị sở hữu bởi những cơn cuồng nộ tôn giáo xưa cũ, và của những kẻ cuồng tín dân tộc. Sẽ là khủng khiếp khi biết rằng sự sụp đổ của thần tượng trừu tượng của hệ tư tưởng sẽ là dự báo trước cho sự nổi dậy của các đam mê trong các bộ tộc, các bè đảng và các nhà thờ đã từng bị chôn vùi. Thật là bất hạnh, các dấu hiệu thẩy đều không yên lòng.
Sự sụp đô của các hệ tư tưởng mà tội gọi là metahistorie (tức là những hệ tư tưởng đã chỉ ra một chung cục và một hướng đi tới cho lịch sử), bao gồm cả sự rời bỏ thầm lặng của những giải pháp toàn bộ. Chúng ta cứ cúi đầu thêm nữa, và thêm nữa với cảm giác tốt đẹp, trước những cách thức hạn hẹp để giải quyết những vấn đề chung. Việc thiết lập tương lai phải cẩn trọng. Nhưng thời hiện tại đòi hỏi không chỉ quan tâm đến những yêu cầu cấp thiết trước mắt mà còn đòi hỏi chúng ta một suy nghĩ toàn diện và hữu hiệu hơn. Đã từ lâu tôi tin và tôi càng tin mạnh mẽ hơn rằng buổi hoàng hôn của tương lai đã tuyên xưng sự hiện diện của ngày hôm nay. Nghĩ ngày hôm nay có nghĩa trước hết là khôi phục lại cái nhìn phê phán. ví dụ thắng lợi của kinh tế thị trường - một thắng lợi đã tạo ra sự vắng mặt đối phương - không thể là lý do duy nhất để mừng vui. Thị trường là một thủ pháp hữu hiệu, nhưng cũng như tất cả mọi thủ pháp (mecanismo) nó không có lương tri và lòng thương hại. Cần tìm ra phương pháp đưa nó vào xã hội để nó là sự biểu hiện của khế ước xã hội và là một công cụ công lý và công bằng. Các xã hội dân chủ phát triển và đã đạt tới một sự thịnh vượng đáng được mơ ước, cũng vì vậy chúng là các đảo giầu có giữa đại dương nghèo đói toàn cầu. Chủ đề về thị trường có một mối quan hệ rất chặt chẽ với sự độc hại của môi trường. Ô nhiễm không chỉ đầu độc bầu không khí, đầu độc các dòng sông, các cánh rừng mà còn đầu độc tâm hồn. Một xã hội bị thống trị của sự cuồng say nhằm sản xuất nhiều hơn nữa để tiêu thụ nhiều hơn nữa càng có khuynh hướng biến tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật, tình bạn, tình yêu và cả chính con người thành các đồ vật tiêu thụ. Tất cả rồi lại trở về đồ vật mà người ta mua, người ta xài và người ta ném vào sọt rác. Không một xã hội nào đã sản xuất ra nhiều đồ thải đi như xã hội chúng ta. Những đồ thải vật chất bị thải đi và những đồ thải đạo đức bị thải đi.
Sự suy nghĩ bây giờ không loại bỏ tương lai cũng không quên quá khứ: thời hiện tại là địa điểm gặp gỡ của ba thời gian. Cũng không thể nhầm lẫn với một thứ chủ nghĩa khoái lạc dễ dãi. Cây khoái lạc không sinh trưởng trong thời quá khứ hay thời tương lai mà ngay trong chính thời hiện tại. Cái chết cũng là một tương lai của thời hiện tại. Chúng ta không thể từ chối cái chết vì nó là một phần của cuộc sống. Sống đẹp đòi hỏi phải chết đẹp. Chúng ta phải học để nhìn thẳng vào cái chết. Sáng và tối, tối và sáng liên tục thay đổi cho nhau, đó là thời hiện tại. Thời hiện tại là một hành tinh đã thống nhất hai mặt đó lại, đã thống nhất hành động và chiêm quan. Như vậy chúng ta có triết lý về thời quá khứ và thời hiện tại, về cái vĩnh hằng và cái hư vô, ngày mai chúng ta sẽ có một triết lý về thời hiện tại. Kinh nghiệm thơ ca có thể là mọt trong những cuộc sống của triết lý đó. Chúng ta hiểu gì về thời hiện tại? Chẳng hiểu gì hay gần như chẳng hiểu biết gì. Nhưng các thi sĩ lại hiểu một cái gì đó: thời hiện tại là ngọn nguồn của những sự hiện hữu.
Nhiều lần tôi đánh mất mình và tìm lại thấy mình trong cuộc phiêu lưu đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện đại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời cổ đại nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Nó nói bằng ngôn ngữ Náhuatl, viết chữ Hán tượng hình từ thế kỉ IX và xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, gĩ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua cửa sổ nó biến mất. Thờ hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc vừa là các thời đại và vừa là các hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại cái quá khứ ngàn năm. Và trở thành một hình ảnh trù mặt của thời đồ đá mới trong thời hiện tại của chúng ta. Chúng ta truy tìm cái hiện đại trong những ẩn dụ không cạn kiệt của nó và không bao giờ chúng ta tóm được nó. Nó luôn luôn chuồn mất, mỗi lần gặp gỡ là một lần nó chạy trốn. Chúng ta vừa ôm được nó và ngay lập tức nó biến mất, hóa ra chỉ là một ít không khí. Cái hiện đại là khoảnh khắc, là con chim có mặt ở mọi nơi và không ở một nơi nào. Thời hiện tại tựa như một cá gì đó được bọc bởi một nhúm âm tiết. Chúng ta muốn giương cao nó lên một cách sống động nhưng nó vỗ cánh rồi biến mất tăm. Chúng ta còn lại hai bàn tay trắng. Thế là ngay lúc đó những cánh cửa của sự thụ cảm hé mở và ló ra cái thời khác, thời chân thực, thời mà chúng ta đi tìm mà không biết: đó là thời hiện tại, sự hiện diện.
Những bậc thầy văn chương - Lê Huy Hòa-Nguyễn Văn Bình (biên soạn) - Nhà xuất bản Lao Động
Đối với Cơ đốc giáo, thế giới - hoặc giả như trước đây được gọi là hai năm mươi, đời sống trần gian - là một địa điểm thử thách: linh hồn bị tiêu tan hay được cứu rỗi trên thế giới này. Đối với quan niệm mới, chủ thể lịch sử không phải linh hồn cá nhân mà là loại người, lúc này được hiểu như là một toàn thể lúc khác lại được hiểu qua một nhóm được chọn làm đại diện cho loài người, ví như các quốc gia phát triển của phương Tây, giai cấp vô sản, chủng tộc da trắng hoặc bất kỳ một nhóm người nào. Truyền thống truyền thuyết đa thần giáo và ky tô giáo đã đề cao Con Người, sự hoàn thiện, toàn mỹ. Chúng ta yêu mến sự Thay Đổi: động lực của sự tiến bộ và khuôn mẫu của các xã hội chúng ta. Sự Thay Đổi có hai hình thức biểu hiện được tôn vinh: tiến hóa và cách mạng, bước đều và nhảy vọt. Cái hiện đại là mũi nhọn của vận động lịch sử, và là sự hiện diện bằng xương thịt của tiến hóa hay của cách mạng đó là hai mặt của sự tiến bộ. Cuối cùng sự tiến bộ được thực hiện nhờ hành động nhân đôi của khoa học và của kỹ thuật, được áp dụng cho sự thống trị giới tự nhiên và cho sự sử dụng các của cải bao la của nó.
Con người hiện đại, tự khăng định mình như là con người lịch sử. Một số xã hội khác lại muốn tự khẳng định mình bằng những giá trị và tư tưởng ngược lại với sự thay đổi: những người Hy Lạp đầu độc nữ thần Polis và hoàn cảnh xung quanh mà họ không biết đến sự tiến bộ, sự quay trở lại vĩnh viến khiến cho Seneca cũng như một số kẻ khắc kỷ khác phải mất ngủ, thánh Augustin tin rằng sự chung cục của thế giới là đáng sợ, thánh Tomas làm một thang bậc cho con cháu Đấng Sáng Thế. Những tư tưởng và niềm tin tôn giáo ấy cái nọ theo cái kia đều bị từ bỏ. Hình như tôi cũng thấy rằng điều đó đã bắt đầu xảy ra đối với tư tưởng về sự tiến bộ, và do đó đối với nhãn quan của chúng ta về thời gian, về lịch sử và về chúng ta. Chúng ta đang chứng kiến buổi chạng vạng tranh tối tranh sáng của tương lai. Sự chìm xuống của tư tưởng về cái Hiện Đại và sự thăng lên của một quan niệm rất lơ mơ như quan niệm "hậu hiện đại", chúng không chỉ là những hiện tượng từng tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật và văn học mà còn là khung cảnh trong đó chúng ta sống cuộc khủng hoảng các tư tưởng và niềm tin tôn giáo cơ bản từng lay động con người suốt hai thế kỷ nay. Về vấn đề này trong nhiều dịp tôi đã đề cập khá đầy đủ. Ở đây, tôi chỉ có thể làm một bản tóm lược ngắn gọn.
Thứ nhất, Quan niệm về một quá trình mở tới vô hạn và đồng nghĩa với sự tiến bộ liên tục đã bị cấm. Hầu như tôi chỉ cần dẫn ra điều mà tất cả chúng ta đã biết: của cải thiên nhiên là có hạn và một ngày nào đó sẽ cạn kiệt. Ngoài ra, chúng ta đã gây nên tổn hại không thể bù đắp nổi đối với môi trường tự nhiên và chính nó đang bị đe dọa. Mặt khác, các công cụ của sự tiến bộ - khoa học và kỹ thuật - đã chứng minh với một sự sáng tỏ đáng sợ rằng: chúng có thể đễ dàng trở thành công cụ phá hoại. Cuối cùng sự tồn tại của vũ khí hạt nhân là một sự phản bác của tư tưởng về sự tiến bộ lịch sử. Một sự phản bác mà chỉ có thể gọi là sự phá hủy thôi.
Thứ hai: Vận may của chủ thể lịch sử, tức là của tập thể nhân loại trong thế kỷ XX. Rất ít khi các dân tộc và các cá nhân phải chịu bao đau khổ như ở thế kỷ này: hai cuộc chiến tranh thế giới, các thể chế chuyên chế được thiết lập trên cả năm châu lục, bom nguyên tử cuối cùng là sự lan truyền của trại tập trung, một trong những công cụ tàn bạo và chết người nhất mà loài người được biết tới. Những đóng góp to lớn của kỹ thuật là không thể kể hết nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh giết chóc, tra tấn, trước sỉ nhục và hạ cấp con người và mốt số tổn thương khác từng khiến hàng triệu người vô tội phải chịu đựng trong thế kỷ chúng ta.
Thứ ba: Niềm tin trong sự tiến bộ cần thiết. Đối với cha ông chúng ta những đổ nát của lịch sử - hài cốt, chiến trường hoang phế, thành phố đổ nát - không từ chối lòng tốt căn bản của quá trình lịch sử. Trường bắn và chế độ độc tài, chiến tranh và sự bạo liệt của các cuộc đấu tranh dân sự là cái giá của sự tiến bộ, là đồng tiền bằng máu phải trả cho Thượng đế của lịch sử. Một Thượng đế ư? Phải, một Thượng đế, đó chính là lý lẽ được thần thánh hóa và phong phú, theo như Hegel nói. Lý trí vờ vĩnh của lịch sử đã bị bốc hơi. Trong chính sự thống trị của trật tự, bình ổn, hợp tác - trong các khoa học chính xác và trong vật lý học - đã xuất hiện trở lại vài quan niệm xưa cũ về tai biết và thảm họa. Sự nổi loạn rùng rợn khiến tôi nghĩ đến những nỗi kinh hoàng của năm một ngàn và những đau đớn của người Azteca vào cuối mỗi chu kỳ vũ trụ của họ.
Để kết thúc tôi xin nói về: sự đổ nát của tất cả những giả định triết học và lịch sử từng mưu toan sự hiểu biết các quy luật của sự phát triển lịch sử. Những môn đệ của chúng, những người tin rằng họ là chủ nhân những chìa khóa lịch sử, đã xây dựng những Nhà nước hùng cường trên những kim tự tháp xác người. Những xây dựng kiêu ngạo ấy, được mệnh danh là để giải phóng con người, đã nhanh chóng biến thành các trại giam khổng lồ. Hôm nay chúng ta đã thấy chúng đổ sụp. Không phải những kẻ thù tư tưởng mà chính là sự mệt mỏi và khát vọng tự do của các thế hệ mới đã lật đổ chúng. Phải chăng đó là cái kết chung cục của các lý thuyết không tưởng? Đúng hơn đó là cái kết cục của tư tưởng lịch sử như là một hiện tượng mà sự phát triển của nó được người ta hiểu rất rõ. Thuyết quyết định lịch sử đã là một bóng ma đẫm máu và đắt giá. Lịch sử là không thể được nhìn rõ vì chủ thể của nó, con người: là sự không quyết định trong tính cách rồi.
![]() |
Nhà thơ người Mexico Octavio Paz |
![]() |
Nhà thơ Octavio Paz thời trẻ |
Sự suy nghĩ bây giờ không loại bỏ tương lai cũng không quên quá khứ: thời hiện tại là địa điểm gặp gỡ của ba thời gian. Cũng không thể nhầm lẫn với một thứ chủ nghĩa khoái lạc dễ dãi. Cây khoái lạc không sinh trưởng trong thời quá khứ hay thời tương lai mà ngay trong chính thời hiện tại. Cái chết cũng là một tương lai của thời hiện tại. Chúng ta không thể từ chối cái chết vì nó là một phần của cuộc sống. Sống đẹp đòi hỏi phải chết đẹp. Chúng ta phải học để nhìn thẳng vào cái chết. Sáng và tối, tối và sáng liên tục thay đổi cho nhau, đó là thời hiện tại. Thời hiện tại là một hành tinh đã thống nhất hai mặt đó lại, đã thống nhất hành động và chiêm quan. Như vậy chúng ta có triết lý về thời quá khứ và thời hiện tại, về cái vĩnh hằng và cái hư vô, ngày mai chúng ta sẽ có một triết lý về thời hiện tại. Kinh nghiệm thơ ca có thể là mọt trong những cuộc sống của triết lý đó. Chúng ta hiểu gì về thời hiện tại? Chẳng hiểu gì hay gần như chẳng hiểu biết gì. Nhưng các thi sĩ lại hiểu một cái gì đó: thời hiện tại là ngọn nguồn của những sự hiện hữu.
Nhiều lần tôi đánh mất mình và tìm lại thấy mình trong cuộc phiêu lưu đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện đại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời cổ đại nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Nó nói bằng ngôn ngữ Náhuatl, viết chữ Hán tượng hình từ thế kỉ IX và xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, gĩ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua cửa sổ nó biến mất. Thờ hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc vừa là các thời đại và vừa là các hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại cái quá khứ ngàn năm. Và trở thành một hình ảnh trù mặt của thời đồ đá mới trong thời hiện tại của chúng ta. Chúng ta truy tìm cái hiện đại trong những ẩn dụ không cạn kiệt của nó và không bao giờ chúng ta tóm được nó. Nó luôn luôn chuồn mất, mỗi lần gặp gỡ là một lần nó chạy trốn. Chúng ta vừa ôm được nó và ngay lập tức nó biến mất, hóa ra chỉ là một ít không khí. Cái hiện đại là khoảnh khắc, là con chim có mặt ở mọi nơi và không ở một nơi nào. Thời hiện tại tựa như một cá gì đó được bọc bởi một nhúm âm tiết. Chúng ta muốn giương cao nó lên một cách sống động nhưng nó vỗ cánh rồi biến mất tăm. Chúng ta còn lại hai bàn tay trắng. Thế là ngay lúc đó những cánh cửa của sự thụ cảm hé mở và ló ra cái thời khác, thời chân thực, thời mà chúng ta đi tìm mà không biết: đó là thời hiện tại, sự hiện diện.
Những bậc thầy văn chương - Lê Huy Hòa-Nguyễn Văn Bình (biên soạn) - Nhà xuất bản Lao Động