Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Rabindranath Tagore

Tôn giáo của nhà thơ
"Chân lý là cái đơn nhất và thống nhất chứ không phải là một mảnh vụn được tách rời khỏi sự hỗn độn" - Rabindranath Tagore
Nhà thơ Rabindranath Tagore
Nhà thơ gợi ý rằng chân lý tự thể hiện trong cái đẹp… Cái đẹp không phải là một sự bịa đặt tùy tiện, nó có cái ý nghĩa muôn thuở của hiện thực.

Nhưng sự kiện tạo ra sự suy sụp và nỗi buồn chỉ là một lướp sương mù, và khi cái đẹp chọc thủng được ở một vài chỗ nào đó của màn sương ấy, chúng ta hiểu rằng cái có thật là tình yêu chứ không phải là hận thù và chân lý là cái đơn nhất và thống nhất chứ không phải là một mảnh vụn được tách rời khỏi sự hỗn độn. Chúng ta cảm thụ rằng sáng tạo là sự hài hòa vĩnh hằng lý tưởng vô cùng của sự hoàn thiện và tính liên tục vô tận của quá trình thực hiện nó, rằng bao giờ chưa có sự cách ly tuyệt đối giữa lý tưởng với sức cảm ngại đối đầu lại sự thành đạt nó, thì chúng ta không biết sợ đau khổ và sự chết chóc.

Đó là tôn giáo của nhà thơ.

Trong một tôn giáo với những tín điều võ đoán, tất cả các vấn đề được giải quyết một cách dứt khoát, tất cả những nỗi hoài nghi đều được trấn an, còn tôn giáo của nhà thơ là chất lỏng giống như bầu khí quyển bao bọc quả địa cầu trong đó ánh sáng và bóng tối chơi trò cút bắt, trong đó giống như chàng chăn cừu trẻ tuổi thổi sáo giữa những đàn cừu có tên là những áng mây. Tôn giáo của nhà thơ không dẫn dắt chúng ta đến một kết luận sau cùng, chung quyết nào: tuy nhiên, nó phát hiện giùm chúng ta những vùng ánh sáng vô tận vì nó không bị những bức tường bao bọc, tạo ra biên giới. Nó nhìn hậu quả của điều ác, nó chấp nhận sự mệt mỏi, những cơn sốt, những sự chao đảo dao động của cõi nhân gian trong đó mỗi người đều hoang phí cả cuộc đời mình để lắng nghe tiếng rên siết kêu than của người khác, nó nhắc nhở chúng ta rằng bất chấp tất cả mọi thứ, con chim họa mi vẫn cứ hót.



Claude Simon

Diễn từ nhận giải Nobel (trích)

Nhà văn Pháp Claude Simon
Thưa quý bà, quý ông
Cảm xúc của một người được Viện Hàn lâm Thụy Điển tôn vinh thể hiện trọn vẹn trong bức thư mà một bạn đồng viện Nobelo, Tiến sĩ André Lwoff, có nhã ý gửi cho tôi:

“Nghiên cứu là một trò chơi hoặc một ván bạc”. “Thắng hay thua chẳng có gì quan trọng, ít ra trên lí thuyết là như vậy. Tuy nhiên các nhà khoa học (và tôi xin nói thêm, các nhà văn) đều giống trẻ nít về một mặt nào đó. Giống lũ trẻ, họ thích thắng và cũng giống lũ trẻ, họ thích giải thưởng”. Bởi vậy, ông André viết thêm: “Tự trong đáy lòng, nhà khoa học nào (tôi lại xin nói thêm, nhà văn nào) cũng khao khát được công nhận”.

Phải thú nhận rằng tôi không quá kiêu căng hay thậm chí ngu ngốc đến mức không biết rằng bất cứ lựa chọn nào trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng đều gây tranh cãi, và trong chừng mực nào đó, võ đoán; và tôi là người đầu tiên coi nhiều nhà văn khác tôi rất kính trọng ở Pháp và các nước khác, là những người hoàn toàn xứng đáng nhận giải thưởng này như mình.

Hãy đặt sang một bên những lời phàn nàn rằng tôi là một nhà văn “khó hiểu”, “buồn chán”, “không thể đọc nổi” hay “bát nháo”, hãy nhớ lại rằng những chê trách tương tự luôn được gán cho bất cứ nghệ sĩ nào dám lật đổ dù chỉ chút ít những thói quen cố định và trật tự sẵn có, thay vào đó, chúng ta hãy tự chất vấn về cung cách mà con cháu của những người đó đã có thời chẳng thấy gì trong các bức tranh ấn tượng chủ nghĩa ngoài những hình thù méo mó (nghĩa là không thể luận được) và ngày nay thì xếp hàng dài bên ngoài các cuộc triển lãm và bảo tàng để chiêm ngưỡng cũng chính những họa sĩ bôi bác đó.

Cũng như vậy, chúng ta hãy gạt sang một bên những ám chỉ rằng các vị đã bầu chọn cho tôi theo ý đồ của các điệp viên thuộc một cơ quan cảnh sát chính trị nào đó, trà trộn giữ các vị đang ngồi đây, tuy nhiên cũng nên lưu ý một điều lạ lùng là thậm chí ngày nay đối với một nhóm người nhất định, Liên bang Xô viết vẫn còn là biểu tượng cho một thế lực thù địch đáng sợ uy hiếp trật tự xã hội, thế lực mà tôi một nhà văn bình thường, có vinh hạnh được liên kết.

“Có phải họ trao giải Nobel cho Claude Simon để khẳng định tin đồn rằng cuối cùng tiểu thuyết đã chết?” một nhà phê bình hỏi. Cái mà ông ta dường như không để ý là nếu với chữ “tiểu thuyết” ông ta muốn nói đến hình mẫu văn học được thiết lập ở thế kỷ 19, thì quả thực nó đã chết rồi, bất kể đã có bao nhiêu sách in ra về những cuộc phiêu lưu dễ thương hay rùng rợn, với kết thúc có hậu hay tuyệt vọng, mà các nhà ga và hiệu sách vẫn đang bán và mua và sẽ còn bán rất lâu nữa, dưới những tựa đề loan báo chân lí mới được tiết lộ như Phận người, Hy vọng hay Những con đường tự do.

Bây giờ tôi đã là một ông già. Giống như cuộc đời của vô số người sống ở châu Âu già cỗi này, phần đời ban đầu của tôi bị xáo trộn không ít. Tôi đã chứng kiến một cuộc cách mạng. Tôi đã ra trận trong những tình huống đặc biệt chết chóc (trung đoàn của tôi là một trong những đơn vị bị bộ tổng tham mưu lạnh lùng hi sinh từ trước, đến nỗi mà một tuần sau hầu như chẳng còn ai sống sót). Tôi bị bắt làm tù binh. Tôi biết thế nào là đói khát. Đã từng bị dồn đến mức kiệt lực vì lao động chân tay. Đã trốn. Đã từng ốm nặng, nhiều lần tưởng chết tự nhiên hoặc suýt bị giết, tôi đã gánh chung vai với mọi loại người; trong mọi hoàn cảnh, từ tu sĩ đến kẻ đốt đền, từ nhà tư sản hòa bình đến phần tử vô chính phủ, triết gia và người mù chữ. Tôi đã chia sẻ miếng bánh với những kẻ cơ nhỡ, nói tóm lại, tôi đã ở giữa nhân quần… với tất cả tuy nhiên vẫn chẳng tìm thấy ý nghĩa nào trong mọi chuyện đó, có thể trừ một ý nghĩa gắn liền với cuộc đời mà Barthe, phỏng theo Shakespeare, đã nói rằng “nếu thế giới có một ý nghĩa, thì đó là nó chẳng có ý nghĩa gì cả” trừ việc nó tồn tại.

Thỉnh thoảng người ta hay nói, duy có điều là quá trôi chảy và ngoài chỗ cần nói, về chức năng và nhiệm vụ của nhà văn. Vài năm trước đây, một số người không phải không mị dân đã sau đây một thành ngữ tự nó đã mâu thuẫn, thậm chí đi đến chỗ tuyên bố rằng “một cuốn sách chẳng đáng gì so với cái chết của một em bé ở Biafra”. Nhưng tại sao một cái chết như thế khác, với cái chết của một con khỉ con, lại không thể chịu đựng nổi? Hiển nhiên bởi vì đứa trẻ là một con người, tức là được phú cho một trí tuệ, một ý thức (tuy ở dạng phôi thai) và nếu sống sót, một ngày kia nó sẽ có khả năng tư duy và nói lên nỗi khổ của mình, sẽ đọc được những điều viết về nỗi khổ của người khác, và đến lượt mình sẽ biết xúc động và nếu may, sẽ viết về điều đó.

Trước khi thế kỷ ánh sáng kết thúc, trước khi huyền thoại về chủ nghĩa hiện thực hình thành, Novalis đã nêu lên với một sự sáng suốt đáng kinh ngạc nghịch lí này: “Ngôn ngữ cũng giống như các công thức toán học, cả hai đều chứa đựng những thế giới riêng những thế giới tự thân. Hoạt động của chúng là độc nhất và nội tại, chúng không thể hiểu gì ngoài bản chất kì diệu của mình, và chính điều đó làm cho ngôn ngữ và toán học giàu sức biểu hiện đến thế, khiến bên trong hai thế giới đó, tác động lẫn nhau của sự vật được phản ánh một cách hết sức đặc biệt”.

Chính trong lúc tìm kiếm tác động qua lại này mà có lẽ người ta có thể hình dung hành động viết văn, hành động tuy khiêm tốn nhưng góp phần làm thay đổi thế giới mỗi khi nó làm thay đổi cách thức sau đây ngôn ngữ của con người, dù ở mức độ nhỏ nhất. Không còn nghi ngờ gì nữa, con đường đó sẽ khác hẳn với mọi người viết tiểu thuyết khởi đầu bằng “phần đầu” và kết thúc bằng “đoạn kết”. Con đường kia, dễ khiến một nhà thám hiểm ở một xứ sở xa lạ mất nhiều công sức mới tìm ra (anh ta phải quên mình đi, trở đi trờ lại những lối mòn, lạc đường bởi sự giống nhau của các địa điểm, những khía cạnh khác nhau của cùng một địa điểm) sẽ thường xuyên qua những giao điểm đã đi nhiều lần, ở cuối cuộc điều tra xâm nhập những hình ảnh và cảm xúc “tức thời” chẳng cái nào gần hơn hay xa hơn cái kia (ngôn từ có một sức mạnh kì diệu là làm xích lại gần và chồng lên nhau những đối tượng lẽ ra vẫn nằm rải rác trong thời gian đo đếm được),  cuộc hành trình đó rất có thể kết thúc với việc anh ta trở lại điểm xuất phát, chỉ có điều là giàu có hơn nhờ biết được vài phương hướng, bắc vài cây cầu, và nếu có vài nét đặc thù xuyên thấu một cách bướng bỉnh, và đừng phô phang yêu sách đòi nói những chuyện tầm phào, anh ta thậm chí có thể đạt tới cái lẽ thường để mọi người dù ít hay nhiều có thể nhận ra anh ta trong đó.


Cao Hành Kiện (Gāo Xíngjiàn)

Thủ pháp hiện đại và tính dân tộc trong tiểu thuyết
"Nếu một tác phẩm trở thành kinh điển thì nó cũng nên là hòn đá lót đường cho hậu thế chứ đừng là gánh nặng cho tương lai" - Cao Hành Kiện
Nhà văn Cao Hành Kiện -
Nobel văn chương 2000
Cái thường được gọi là hình thức dân tộc trong văn học Trung Quốc nghĩa là gì? Trong thơ, ít nhiều mọi chuyện cũng rõ ràng: chủ yếu đó là những khuôn mẫu âm điệu và niêm luật thơ cổ điển, hình thức ca dao. Hình thức dân tộc trong thơ cổ điển liên quan đến hai truyền thống thi các khác nhau nói trên. Trong văn xuôi, nói cho đúng ta chỉ có tiểu thuyết chương hồi mà rất ít nhà văn ngày nay còn sử dụng. Hình thức văn xuôi phần lớn các nhà văn Trung Quốc sử dụng từ cuộc vận động Ngũ Tứ (1919) chủ yếu xuất phát từ truyền thống văn xuôi phương Tây thế kỷ XVIII và XIX.

Tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc vẫn còn sử dụng thủ pháp truyền thống nào từ khi từ bỏ lối viết chương hồi? Thủ pháp được nói nhiều nhất trong văn xuôi cổ điển Trung Quốc là phương pháp miêu tả trực tiếp, một thuật ngữ vay mượn của hội họa: phác họa các đường nét chính với những nét thoáng, sau đó thêm vào những nét quyết định tạo thần thái cho tác phẩm. Áp dụng vào văn  xuôi, phương pháp này chắc chắn rất độc đáo. Nhà văn ngắt quãng dòng tự sự khi đến cao trào, làm tăng hứng thú của độc giả, bắt độc giả chờ đợi diễn biến tiếp theo ở chương sau.

Một số tiểu thuyết gia sử dụng thành công kỹ thuật này. Số khác sử dụng nó đồng thời tiếp nhận những thủ pháp khác học được của truyền thống hiện thực phương Tây. Việc tiếp nhận kỹ thuật phương Tây không nhất thiết làm hại đến tính dân tộc. Câu hỏi ở đây là: những nhà văn từ thời Ngũ Tứ đã thôi sử dụng phương pháp miêu tả trực tiếp với tư cách là thủ pháp biểu hiện chủ yếu (số này rất đông), từ bỏ truyền thống, họ có làm hỏng hay biến dạng tính dân tộc trong tác phẩm hay không? Câu trả lời hiển nhiên là “không”.

Vậy là tính dân tộc trong văn học là gì? Turgenev nói rất đúng rằng “dân tộc” của ông chính là tiếng Nga. Nhà văn sáng tạo thông qua ngôn ngữ; tính dân tộc trong tác phẩm của ông toát ra trước hết và chủ yếu từ khả năng khai thác tiềm năng nghệ thuật của ngôn ngữ đó.

Trung Quốc là một đất nước có nhiều dân tộc, ở đó Hán ngữ là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất. Chúng ta có thể nói rằng bất cứ tác phẩm văn chương nào được viết bằng Hán ngữ, hoặc ngôn ngữ của bất kỳ dân tộc nào, đều phản ánh tính dân tộc của những mức độ khác nhau.

Ngôn ngữ là phương tiện để chúng ta tư duy và truyền đạt tư tưởng. Một tác phẩm viết bằng một ngôn ngữ dân tộc tất nhiên sẽ phản ánh truyền thống văn hóa, lối sống và cách suy nghĩ của dân tộc đó. Bất kể một nhà văn Trung Quốc nào cũng có thể vay mượn kỹ thuật nước ngoài, miễn là anh viết bằng một thứ tiếng Trung Quốc thuần thục, tiêu biểu thì tác phẩm ấy nhất định phải có phong vị dân tộc. Nước Italia mà Gorky miêu tả sẽ vẫn là nước Italia trong văn học Nga. Cũng như vậy, đối với nước Mỹ nhìn qua góc độ một nhà văn nhập cư Trung Quốc. Những mô tả của anh ta khác căn bản với mô tả của các nhà văn Mỹ.

Khi nhà văn miêu tả thực hiện dân tộc bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, nếu tác phẩm của anh ta càng sinh động thì tính dân tộc càng cao. Thủ pháp sử dụng chỉ là thứ yếu.

Nữ thần, tập thơ của Quách Mạt Nhược, hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Walt Whitman. Tuy nhiên không ai nghĩ đây là thơ ngoại quốc. Phong cách thơ tự do của Nghĩa Thạch không chỉ bắt nguồn từ trường phái ấn tượng và tượng trưng, nó còn phản ánh ý thức nỗ lực của nhà thơ nhằm phá vỡ khuôn khổ thơ ca dân gian. Lỗ Tấn còn cực đoan hơn khi chủ trương “nguyên lý hiệu quả”. Trong truyện và thơ của ông có sự pha trộn giữa các thủ pháp hiện thực phê phán lãng mạn, ấn tượng, tượng trưng và siêu thực. Trong Nhật ký người điên, Lỗ Tấn đã đi trước Kafka: ông vay mượn của Gogol thủ pháp thô kệch. Tác phẩm thơ văn xuôi, Khách qua đường của ông chẳng khác mấy kịch của Pirandello, và được viết nhiều năm trước khi có các vở kịch của Ionesco và Beckett. Ông sử dụng thủ pháp tượng trưng trong Thầy lang Báo thù, thủ pháp ấn tượng trong Chuyện người tốt, Hành KhấtMưa thu, thủ pháp siêu thực (mà lúc đó mới chỉ bắt đầu hiện thực ở phương Tây) trong Bia mộ Dao động. Hơn nữa, A.Q chính truyện được viết theo một lối chưa từng có trong văn xuôi cổ điển Trung Quốc.

Các nhà tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc xuất chúng nhất, Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Đinh Linh đều phối hợp các kỹ thuật phương Tây để tạo ra phong cách riêng của họ. Độ sâu rộng của hiện thực, tính cách của các tầng lớp xã hội được miêu tả trong các tác phẩm của họ vượt xa những nhà văn khư khư giữ lấy cách viết truyền thống.
Tranh mực tàu của Cao Hành Kiện
Khi Lỗ Tấn viết A.Q chính truyện có lẽ ông không chủ tâm tìm kiếm một hình thức dân tộc cho văn xuôi. Tuy nhiên giọng văn điềm tĩnh riêng có ở ông, trong đó pha trộn cảm tình với châm biếm, đã cho phép ông không những thể hiện cuộc đời cơ cực và tâm lý của một người nông dân mà còn phản ánh được đời sống và tâm lý xã hội nửa thực dân phong kiến khi ấy. Khi đọc truyện ngắn này, nhà văn Romain Rolland, một người tắm mình trong văn hóa Latin và trưởng thành trong một xã hội hoàn toàn khác với Lỗ Tấn, đã không kìm nổi những giọt nước mắt. Tiểu thuyết Gia tộc của Ba Kim, với nội dung tập trung vào số phận và khát vọng của thanh niên Trung Quốc trước và sau phong trào Ngũ Tứ, cũng gây được ấn tượng cho nhiều độc giả phương Tây. Điều đó chỉ ra rằng nếu một nhà văn miêu tả chân thực của đời sống nhân dân, độc giả ở các nước khác cũng sẽ xúc động và hiểu như độc giả trong nước.

Thủ pháp nghệ thuật vượt qua mọi biên giới quốc gia. Nó không phải là độc quyền của một dân tộc nào. Tinh thần dân tộc có một lịch sử lâu dài, mạnh mẽ và bền bỉ hơn tuổi thọ tương đối ngắn của một thủ pháp. Nó là tổng hòa của truyền thống văn hóa dân tộc, tập quán xã hội, khuôn mẫu tâm lý, thói quen thẩm mỹ và phong cách tư duy. Việc sử dụng và tiếp thu các thủ pháp mới không bao giờ là trở ngại cho sự phát triển lành mạnh của văn học dân tộc.

Việc tìm kiếm các thủ pháp nghệ thuật không phải lúc nào cũng đem lại kết quả. Phần lớn các nghệ sĩ lớn đều trải qua những thất bại cay đắng. Họ không nghĩ rằng tất cả các tác phẩm của họ sẽ trở thành kinh điển và sống mãi với hậu thế. Thực tế có những tác phẩm lớn mà khi ra đời không được xã hội công nhận. Tuy nhiên lịch sử mới là người cầm cân. Thậm chí nếu một tác phẩm trở thành kinh điển thì nó cũng nên là hòn đá lót đường cho hậu thế chứ đừng là gánh nặng cho tương lai. Đó là một thái độ nên có khi bàn về truyền thống và cách tân.

Xem thêm về Cao Hành Kiện:

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=3E62251C4846FBD72A73E99B5BB14A39?action=viewArtwork&artworkId=7019

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=3E62251C4846FBD72A73E99B5BB14A39?action=viewArtwork&artworkId=6964

http://evan.vnexpress.net/News/chan-dung/2005/05/3B9ACFE6/

http://evan.vnexpress.net/Search/?p=1&r=5&a=3&s=Cao%20H%26%23224%3Bnh%20Ki%26%237879%3Bn