Diễn từ nhận giải Nobel (trích)
 |
Nhà văn Pháp Claude Simon |
Thưa quý bà, quý ông
Cảm xúc của một người được Viện Hàn lâm Thụy Điển tôn vinh thể hiện trọn vẹn trong bức thư mà một bạn đồng viện Nobelo, Tiến sĩ André Lwoff, có nhã ý gửi cho tôi:
“Nghiên cứu là một trò chơi hoặc một ván bạc”. “Thắng hay thua chẳng có gì quan trọng, ít ra trên lí thuyết là như vậy. Tuy nhiên các nhà khoa học (và tôi xin nói thêm, các nhà văn) đều giống trẻ nít về một mặt nào đó. Giống lũ trẻ, họ thích thắng và cũng giống lũ trẻ, họ thích giải thưởng”. Bởi vậy, ông André viết thêm: “Tự trong đáy lòng, nhà khoa học nào (tôi lại xin nói thêm, nhà văn nào) cũng khao khát được công nhận”.
Phải thú nhận rằng tôi không quá kiêu căng hay thậm chí ngu ngốc đến mức không biết rằng bất cứ lựa chọn nào trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng đều gây tranh cãi, và trong chừng mực nào đó, võ đoán; và tôi là người đầu tiên coi nhiều nhà văn khác tôi rất kính trọng ở Pháp và các nước khác, là những người hoàn toàn xứng đáng nhận giải thưởng này như mình.
Hãy đặt sang một bên những lời phàn nàn rằng tôi là một nhà văn “khó hiểu”, “buồn chán”, “không thể đọc nổi” hay “bát nháo”, hãy nhớ lại rằng những chê trách tương tự luôn được gán cho bất cứ nghệ sĩ nào dám lật đổ dù chỉ chút ít những thói quen cố định và trật tự sẵn có, thay vào đó, chúng ta hãy tự chất vấn về cung cách mà con cháu của những người đó đã có thời chẳng thấy gì trong các bức tranh ấn tượng chủ nghĩa ngoài những hình thù méo mó (nghĩa là không thể luận được) và ngày nay thì xếp hàng dài bên ngoài các cuộc triển lãm và bảo tàng để chiêm ngưỡng cũng chính những họa sĩ bôi bác đó.
Cũng như vậy, chúng ta hãy gạt sang một bên những ám chỉ rằng các vị đã bầu chọn cho tôi theo ý đồ của các điệp viên thuộc một cơ quan cảnh sát chính trị nào đó, trà trộn giữ các vị đang ngồi đây, tuy nhiên cũng nên lưu ý một điều lạ lùng là thậm chí ngày nay đối với một nhóm người nhất định, Liên bang Xô viết vẫn còn là biểu tượng cho một thế lực thù địch đáng sợ uy hiếp trật tự xã hội, thế lực mà tôi một nhà văn bình thường, có vinh hạnh được liên kết.
“Có phải họ trao giải Nobel cho Claude Simon để khẳng định tin đồn rằng cuối cùng tiểu thuyết đã chết?” một nhà phê bình hỏi. Cái mà ông ta dường như không để ý là nếu với chữ “tiểu thuyết” ông ta muốn nói đến hình mẫu văn học được thiết lập ở thế kỷ 19, thì quả thực nó đã chết rồi, bất kể đã có bao nhiêu sách in ra về những cuộc phiêu lưu dễ thương hay rùng rợn, với kết thúc có hậu hay tuyệt vọng, mà các nhà ga và hiệu sách vẫn đang bán và mua và sẽ còn bán rất lâu nữa, dưới những tựa đề loan báo chân lí mới được tiết lộ như Phận người, Hy vọng hay Những con đường tự do.
Bây giờ tôi đã là một ông già. Giống như cuộc đời của vô số người sống ở châu Âu già cỗi này, phần đời ban đầu của tôi bị xáo trộn không ít. Tôi đã chứng kiến một cuộc cách mạng. Tôi đã ra trận trong những tình huống đặc biệt chết chóc (trung đoàn của tôi là một trong những đơn vị bị bộ tổng tham mưu lạnh lùng hi sinh từ trước, đến nỗi mà một tuần sau hầu như chẳng còn ai sống sót). Tôi bị bắt làm tù binh. Tôi biết thế nào là đói khát. Đã từng bị dồn đến mức kiệt lực vì lao động chân tay. Đã trốn. Đã từng ốm nặng, nhiều lần tưởng chết tự nhiên hoặc suýt bị giết, tôi đã gánh chung vai với mọi loại người; trong mọi hoàn cảnh, từ tu sĩ đến kẻ đốt đền, từ nhà tư sản hòa bình đến phần tử vô chính phủ, triết gia và người mù chữ. Tôi đã chia sẻ miếng bánh với những kẻ cơ nhỡ, nói tóm lại, tôi đã ở giữa nhân quần… với tất cả tuy nhiên vẫn chẳng tìm thấy ý nghĩa nào trong mọi chuyện đó, có thể trừ một ý nghĩa gắn liền với cuộc đời mà Barthe, phỏng theo Shakespeare, đã nói rằng “nếu thế giới có một ý nghĩa, thì đó là nó chẳng có ý nghĩa gì cả” trừ việc nó tồn tại.
Thỉnh thoảng người ta hay nói, duy có điều là quá trôi chảy và ngoài chỗ cần nói, về chức năng và nhiệm vụ của nhà văn. Vài năm trước đây, một số người không phải không mị dân đã sau đây một thành ngữ tự nó đã mâu thuẫn, thậm chí đi đến chỗ tuyên bố rằng “một cuốn sách chẳng đáng gì so với cái chết của một em bé ở Biafra”. Nhưng tại sao một cái chết như thế khác, với cái chết của một con khỉ con, lại không thể chịu đựng nổi? Hiển nhiên bởi vì đứa trẻ là một con người, tức là được phú cho một trí tuệ, một ý thức (tuy ở dạng phôi thai) và nếu sống sót, một ngày kia nó sẽ có khả năng tư duy và nói lên nỗi khổ của mình, sẽ đọc được những điều viết về nỗi khổ của người khác, và đến lượt mình sẽ biết xúc động và nếu may, sẽ viết về điều đó.
Trước khi thế kỷ ánh sáng kết thúc, trước khi huyền thoại về chủ nghĩa hiện thực hình thành, Novalis đã nêu lên với một sự sáng suốt đáng kinh ngạc nghịch lí này: “Ngôn ngữ cũng giống như các công thức toán học, cả hai đều chứa đựng những thế giới riêng những thế giới tự thân. Hoạt động của chúng là độc nhất và nội tại, chúng không thể hiểu gì ngoài bản chất kì diệu của mình, và chính điều đó làm cho ngôn ngữ và toán học giàu sức biểu hiện đến thế, khiến bên trong hai thế giới đó, tác động lẫn nhau của sự vật được phản ánh một cách hết sức đặc biệt”.
Chính trong lúc tìm kiếm tác động qua lại này mà có lẽ người ta có thể hình dung hành động viết văn, hành động tuy khiêm tốn nhưng góp phần làm thay đổi thế giới mỗi khi nó làm thay đổi cách thức sau đây ngôn ngữ của con người, dù ở mức độ nhỏ nhất. Không còn nghi ngờ gì nữa, con đường đó sẽ khác hẳn với mọi người viết tiểu thuyết khởi đầu bằng “phần đầu” và kết thúc bằng “đoạn kết”. Con đường kia, dễ khiến một nhà thám hiểm ở một xứ sở xa lạ mất nhiều công sức mới tìm ra (anh ta phải quên mình đi, trở đi trờ lại những lối mòn, lạc đường bởi sự giống nhau của các địa điểm, những khía cạnh khác nhau của cùng một địa điểm) sẽ thường xuyên qua những giao điểm đã đi nhiều lần, ở cuối cuộc điều tra xâm nhập những hình ảnh và cảm xúc “tức thời” chẳng cái nào gần hơn hay xa hơn cái kia (ngôn từ có một sức mạnh kì diệu là làm xích lại gần và chồng lên nhau những đối tượng lẽ ra vẫn nằm rải rác trong thời gian đo đếm được), cuộc hành trình đó rất có thể kết thúc với việc anh ta trở lại điểm xuất phát, chỉ có điều là giàu có hơn nhờ biết được vài phương hướng, bắc vài cây cầu, và nếu có vài nét đặc thù xuyên thấu một cách bướng bỉnh, và đừng phô phang yêu sách đòi nói những chuyện tầm phào, anh ta thậm chí có thể đạt tới cái lẽ thường để mọi người dù ít hay nhiều có thể nhận ra anh ta trong đó.