Trăm năm cô đơn với ngòi bút
Quay về từ lò lửa chiến tranh, Hemingway đã trả giá đắt cho sự tồn tại nếu không phải là ý thức được nó ít ra một cách sáng suốt. Cái cách phòng ngự tốt nhất để chống lại sự hư vô và mọi "ảo tưởng trữ tình" về cuộc sống mà ông tìm thấy là trong công việc cô đơn của nhà văn.
Ở Key West, từ năm 1928, Hemingway đã ly khai với xã hội Mỹ. Ông chạy trốn một đất nước bị chao đảo bởi sự cấm đoán chống cộng và nạn nhân của suy thoái. Ngược lại với William Faulkner, cắm rễ vào vùng sâu của miền Nam, ông đã khước từ việc đồng nhất mình với đất nước sinh ra mình. Thực tế cho đến khi chết ông sống tại Finca Vigia, rất gần La Havane (Cuba) đằng sau dãy tường cao màu trắng, trong một ngôi nhà không có quạt máy mà cũng chả có máy điều hòa nhiệt độ. Chính ở đây ông đã viết ra phần lớn những tác phẩm của mình. Tờ Paris Review kể lại: "Từ sáng sớm, ông thức dậy, đứng trước bàn viết, tập trung tư tưởng đến cao độ. Ông chỉ đổi chân khi mỏi vì trọng lượng cơ thể dồn quá lâu lên một chân, mồ hôi tháo ra khi cảm hứng về nghệ thuật nhất thời bị mất đi và cam lòng làm nô lệ cho thứ kỷ luật tự áp đặt cho mình và tuân thủ cho đến giữa trưa".
Ở Key West, từ năm 1928, Hemingway đã ly khai với xã hội Mỹ. Ông chạy trốn một đất nước bị chao đảo bởi sự cấm đoán chống cộng và nạn nhân của suy thoái. Ngược lại với William Faulkner, cắm rễ vào vùng sâu của miền Nam, ông đã khước từ việc đồng nhất mình với đất nước sinh ra mình. Thực tế cho đến khi chết ông sống tại Finca Vigia, rất gần La Havane (Cuba) đằng sau dãy tường cao màu trắng, trong một ngôi nhà không có quạt máy mà cũng chả có máy điều hòa nhiệt độ. Chính ở đây ông đã viết ra phần lớn những tác phẩm của mình. Tờ Paris Review kể lại: "Từ sáng sớm, ông thức dậy, đứng trước bàn viết, tập trung tư tưởng đến cao độ. Ông chỉ đổi chân khi mỏi vì trọng lượng cơ thể dồn quá lâu lên một chân, mồ hôi tháo ra khi cảm hứng về nghệ thuật nhất thời bị mất đi và cam lòng làm nô lệ cho thứ kỷ luật tự áp đặt cho mình và tuân thủ cho đến giữa trưa".
Z
Cần nhắc lại rằng Hemingway là một nhà văn. Trong 7 tháng (kể từ tháng 4/1917) mà ông sống tại tòa soạn tờ Star ở Kansas City là những ngày tháng tạo dựng nên ngòi bút của ông: ông hình thành và xác lập ra văn phong, nghệ thuật viết văn và toàn bộ cuộc sống của mình. Việc trải qua nghề báo đã thuyết phục ông rằng ngôn ngữ trần thuật có lẽ rất gàn gũi với ông, cái kiểu nói lóng. Văn chương của ông, rất chặt chẽ, là sự gặp gỡ của hai khuynh hướng lớn của văn học Mỹ: Chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa tượng trưng. Quả vậy, ông gạt bỏ sự che đậy, cái mà qua nghề báo ông cảm thấy là cần thiết. Khi 35 tuổi, ông đăng trên tờ Esquire một bài báo nêu lên cho chúng ta một bài học viết văn thật tuyệt vời: "Cái khó nhất ở đời là viết ra một câu văn hoàn toàn chân thật về những con người. Trước hết phải nắm được chủ đề, rồi biết cách viết ra." Hemingway còn nói: "Công việc này đòi hỏi sự dâng hiến hoàn toàn giống như nghề một giáo sĩ". Đối với ông, viết văn là một công việc cụ thể, thuộc về thể chất. Ông viết chậm và khó khăn. Ngày qua ngày, tháng hết tháng, ông dậy từ rạng sáng, đọc lại những trang viết ra ngày hôm trước, chữa lại chỗ này, chỗ kia rồi viết tiếp, bắt đầu từ câu cuối, chữ cuối và cỗ máy được khởi động lại. Với ông, viết lách bao giờ cũng nguy hiểm và không hề hoàn tất. Ông đã viết lại 32 lần những trang cuối của cuốn Giã từ vũ khí và đã sửa chữa khoảng 30 lần trên bản in thử! Những bản thảo của ông chỉ ra sự quan tâm kỹ càng của ông đối với những gì ông sửa chữa, gạch xóa, kiểm duyệt hay cắt bỏ. Ông nói: "Tôi muốn tước bỏ ngôn từ để bóc trần nó ra cho đến tận xương". Đối với Hemingway viết lách chính là phân biệt với cái chết. Viết là cách để phá vỡ sự cô đơn. Ông viết giống như không phải vì ông có thể viết và muốn viết mà vì cần phải viết. Ông lắng nghe con quái vật trong người mình. Ông mời mọc chúng ta chia sẻ những trực giác của mình, những cảm quan của mình về cuộc đời. Ông để cho những trang viết tự nhân lên, chiếm lĩnh lấy ông. Ông biến việc viết lách thành công việc lao dịch chính và là niềm vui sảng khoái nhất.
Người ta đã biết rằng đối với Hemingway, viết lách là công việc nghiêm chỉnh. Người ta chỉ được viết về những gì mình hiểu và bao giờ cũng phải chân thực. Những trích dẫn của Hemingway về "sự chân thực ban đầu" thì có đến hàng trang, những sự chân thực chưa phải là sự thực. Nhà văn là chân thực khi họ nói lên từ thâm tâm mình và thế giới tinh thần của một nhà văn có thể là một bí mật lộn xộn đáng kể, một sự hỗn độn. Hemingway đã áp dụng vào văn chương cái ướng nguyện mà nhà văn Anh Kipling đã khuôn đúc nên: "Trước hết là thu thập sự kiện và làm biến dạng chúng theo ý của mình", nhưng ông còn thêm vào đấy một kích thước riêng cho mình: kiểm tra lại chúng từ thực tế. Trong thứ văn học này, thứ văn học tìm kiếm sự cứu rỗi trong sự hoàn mỹ, mà theo Hemingway "sự thanh bạch của nhà văn cũng giống như trinh tiết một cô gái. Nếu nó mất đi thì nó không thể tìm lại được". Cần phải tìm hiểu Hemingway từ một góc độ khác của huyền thoại ông, đằng sau những dòng suối rượu Whisky và Scott của Floridita, những cú đấm của Bodegita del Medio và đằng sau những buổi tối hẹn hò với Ingrid Bergman và Ordonez, đằng sau những ván chọi gà và môn bóng chày. Rồi đằng sau biển cả, trò chơi săn bắn và cả chiến tranh. Hemingway thuộc về cái mà người ta có thể gọi là dòng nhà văn nam tính. Nhưng tất cả cái đó chỉ là chiếc mặt nạ và sự đau đớn. Từ đáy sâu, môn quyền Anh hay tình yêu bạo lực nói lên một triết lý. Thay vì húc mạnh, tốt hơn là có thể chịu đòn mà không van vỉ. Đấy là người đấu sĩ bị thương trên đấu trường trong Chuông nguyện hồn ai, đấy là người võ sĩ quyền Anh nhà nghề giỏi chịu đòn và có thể để mất một trận đấ lừa gạt, đấy là một người đi câu tóm được một con cá tuyệt vời và để mất nó đi. Trong bạo lực, người ta học được sự thất bại. Hemingway từng nói: "Cả thiên hạ đều ở trên võ đài. Người ta chỉ tồn tại khi tung ra những nắm đấm. Tự mình tôi đã đấu đá cho đến ngày cuối và cái ngày đó tôi lại tự đánh mình để chấp nhận cái chết, như là một cái gì đẹp đẽ, cái đẹp giống như người ta từng thấy từ chủ nhật này đến chủ nhật khác trên đấu trường".

Cần nhắc lại rằng Hemingway là một nhà văn. Trong 7 tháng (kể từ tháng 4/1917) mà ông sống tại tòa soạn tờ Star ở Kansas City là những ngày tháng tạo dựng nên ngòi bút của ông: ông hình thành và xác lập ra văn phong, nghệ thuật viết văn và toàn bộ cuộc sống của mình. Việc trải qua nghề báo đã thuyết phục ông rằng ngôn ngữ trần thuật có lẽ rất gàn gũi với ông, cái kiểu nói lóng. Văn chương của ông, rất chặt chẽ, là sự gặp gỡ của hai khuynh hướng lớn của văn học Mỹ: Chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa tượng trưng. Quả vậy, ông gạt bỏ sự che đậy, cái mà qua nghề báo ông cảm thấy là cần thiết. Khi 35 tuổi, ông đăng trên tờ Esquire một bài báo nêu lên cho chúng ta một bài học viết văn thật tuyệt vời: "Cái khó nhất ở đời là viết ra một câu văn hoàn toàn chân thật về những con người. Trước hết phải nắm được chủ đề, rồi biết cách viết ra." Hemingway còn nói: "Công việc này đòi hỏi sự dâng hiến hoàn toàn giống như nghề một giáo sĩ". Đối với ông, viết văn là một công việc cụ thể, thuộc về thể chất. Ông viết chậm và khó khăn. Ngày qua ngày, tháng hết tháng, ông dậy từ rạng sáng, đọc lại những trang viết ra ngày hôm trước, chữa lại chỗ này, chỗ kia rồi viết tiếp, bắt đầu từ câu cuối, chữ cuối và cỗ máy được khởi động lại. Với ông, viết lách bao giờ cũng nguy hiểm và không hề hoàn tất. Ông đã viết lại 32 lần những trang cuối của cuốn Giã từ vũ khí và đã sửa chữa khoảng 30 lần trên bản in thử! Những bản thảo của ông chỉ ra sự quan tâm kỹ càng của ông đối với những gì ông sửa chữa, gạch xóa, kiểm duyệt hay cắt bỏ. Ông nói: "Tôi muốn tước bỏ ngôn từ để bóc trần nó ra cho đến tận xương". Đối với Hemingway viết lách chính là phân biệt với cái chết. Viết là cách để phá vỡ sự cô đơn. Ông viết giống như không phải vì ông có thể viết và muốn viết mà vì cần phải viết. Ông lắng nghe con quái vật trong người mình. Ông mời mọc chúng ta chia sẻ những trực giác của mình, những cảm quan của mình về cuộc đời. Ông để cho những trang viết tự nhân lên, chiếm lĩnh lấy ông. Ông biến việc viết lách thành công việc lao dịch chính và là niềm vui sảng khoái nhất.
Người ta đã biết rằng đối với Hemingway, viết lách là công việc nghiêm chỉnh. Người ta chỉ được viết về những gì mình hiểu và bao giờ cũng phải chân thực. Những trích dẫn của Hemingway về "sự chân thực ban đầu" thì có đến hàng trang, những sự chân thực chưa phải là sự thực. Nhà văn là chân thực khi họ nói lên từ thâm tâm mình và thế giới tinh thần của một nhà văn có thể là một bí mật lộn xộn đáng kể, một sự hỗn độn. Hemingway đã áp dụng vào văn chương cái ướng nguyện mà nhà văn Anh Kipling đã khuôn đúc nên: "Trước hết là thu thập sự kiện và làm biến dạng chúng theo ý của mình", nhưng ông còn thêm vào đấy một kích thước riêng cho mình: kiểm tra lại chúng từ thực tế. Trong thứ văn học này, thứ văn học tìm kiếm sự cứu rỗi trong sự hoàn mỹ, mà theo Hemingway "sự thanh bạch của nhà văn cũng giống như trinh tiết một cô gái. Nếu nó mất đi thì nó không thể tìm lại được". Cần phải tìm hiểu Hemingway từ một góc độ khác của huyền thoại ông, đằng sau những dòng suối rượu Whisky và Scott của Floridita, những cú đấm của Bodegita del Medio và đằng sau những buổi tối hẹn hò với Ingrid Bergman và Ordonez, đằng sau những ván chọi gà và môn bóng chày. Rồi đằng sau biển cả, trò chơi săn bắn và cả chiến tranh. Hemingway thuộc về cái mà người ta có thể gọi là dòng nhà văn nam tính. Nhưng tất cả cái đó chỉ là chiếc mặt nạ và sự đau đớn. Từ đáy sâu, môn quyền Anh hay tình yêu bạo lực nói lên một triết lý. Thay vì húc mạnh, tốt hơn là có thể chịu đòn mà không van vỉ. Đấy là người đấu sĩ bị thương trên đấu trường trong Chuông nguyện hồn ai, đấy là người võ sĩ quyền Anh nhà nghề giỏi chịu đòn và có thể để mất một trận đấ lừa gạt, đấy là một người đi câu tóm được một con cá tuyệt vời và để mất nó đi. Trong bạo lực, người ta học được sự thất bại. Hemingway từng nói: "Cả thiên hạ đều ở trên võ đài. Người ta chỉ tồn tại khi tung ra những nắm đấm. Tự mình tôi đã đấu đá cho đến ngày cuối và cái ngày đó tôi lại tự đánh mình để chấp nhận cái chết, như là một cái gì đẹp đẽ, cái đẹp giống như người ta từng thấy từ chủ nhật này đến chủ nhật khác trên đấu trường".
Bỗng chốc tất cả đều trở nên rõ ràng. Huyền thoại về sức mạnh cơ thể vô địch chỉ là một thứ đánh lừa mà đằng sau nó là một Hemingway khắc kỷ: sự chiến thắng trong thất bại. Cái con người mà những dân sơn dã ở Vorarlberg mệnh danh là "Chúa Christ, kẻ uống rượu anh đào" là một con người bị tổn thương. Tất cả cũng giống như bạo lực hay rượu, chỉ là một thứ che đậy. Để phục vụ cho truyền thuyết, chiếc mặt nạ đó che chở cho Hemingway và tham gia vào những đồ hóa trang của người săn thú rừng, của phóng viên chiến tranh, của thứ nội tạng không biết chán, một tượng đài đầy nam tính, những cái đã che giấu ông nhưng lại khiến ông phàn nàn: "Tôi muốn được thừa nhận là nhà văn mà không phải là một con người tham gia nhiều cuộc chiến tranh và càng không phải là một võ sĩ quyền Anh hay một kẻ đi săn, một dân đi biển hay một kẻ nát rượu. Tôi chỉ thích là một nhà văn và được nhìn nhận như vậy".
Đấy là điều mà chúng ta ghi nhớ, rằng Hemingway là một nhà văn. Ở tuổi 50, ông kể lại với một nhà báo rằng sự e thẹn của ông vẫn không suy suyển. Là một đứa bé sinh ra ở một khu ngoại ô của Chicago, ông có chiếc cần câu cá từ khi lên 3, có chiếc súng săn cỡ nòng 20 vào năm 11 tuổi và sau đó suốt đời tìm kiếm lại cái thiên đường đã mất của những chuyến đi săn dọc bờ hồ Wallon với cha mình, mảnh đất của bộ tộc da đỏ Ojibway, và đã trở thành thế giới huyền thoại của ông. Có cái gì người ta không nói về ông? Rằng ông thách đấu súng với một kẻ đã nhục mạ ngôi sao Ava Gardner, rằng ông đã cứu nhà văn Dos Passos thoát khỏi bộ sứng một con bò tót ở xứ Andalousie, rằng ông đã giải phóng khách sạn Ritz ở Paris khi cầm đầu một đội quân đánh thuê, rằng ông đã đầu têu cho cái trò mất dạy "Tàu thủy, nhậu nhẹt, nhà thổ, dê đực..." Hemingway chính là mặt trái của huyền thoại về ông. Ông là nhà văn, người không ngớt tuyên bố: "Tôi thích người ta phân tích tác phẩm của tôi hơn là gặm nhấm đời tư của mình". Evely Waugh, người có bộ răng cứng, nhưng đã tìm ra những lời đúng: "Đằng sau những sự phách lối, những lời nguyền rủa, những nắm đấm, đã lộ ra một ý nghĩa cơ bản của tinh thần hiệp sĩ: Sự kính trọng phụ nữ, bênh vực kẻ yếu và ý thức danh dự". Những kẻ dèm pha ông đã tìm thấy ở ông một cái gì đó không thể khoan dung: Vấn đề đạo đức. 40 năm sau khi ông mất, không phải bao giờ người ta cũng tha thứ cho ông về chuyện đó.
Về cái chết của ông, một người bạn của ông, Aaron E.Hotchner, một nhà văn, đã kể lại những ngày cuối cùng của Hemingway và về lý do ông muốn chấm dứt cuộc đời. Hotchner nói: "Người ta thực sự không thể trả lời câu hỏi này. Bởi lẽ không thể tách rời tình thế khách quan ra khỏi tâm trạng của ông lúc bấy giờ. Một trong những yếu tố quan trọng là một loạt những cú chạy điện trị liệu đối với ông. Lúc bấy giờ, việc ứng dụng môn trị liệu bằng chạy điện còn rất sơ khai, tôi không hiểu là những nhân viên kỹ thuật thực hành chuyện đó có thật nắm vững hay không". Đấy là một hàng thịt về mặt tâm thần. Nhưng những năm kinh hoàng nhất là những yếu tố cuối cùng. Sức sống đã lìa bỏ ông. Và ông có những toan tính tự tử. Ông có ý định nhảy xuống từ máy bay rồi ngay sau đó lợi dụng việc bạn bè cho là ông đang ngủ say đã lại định nhảy ra cửa sổ trên cùng chiếc máy bay đó. Ông thường bảo: "Những người Tây Ban Nha hiểu rằng người ta phải sống cuộc đời mình và khi không còn tìm thấy niềm vui sống thì cần chất dứt đi". Đấy là điều mà Hemingway đã làm.
CÓ NHỮNG NHÀ VĂN NHƯ THẾ - HÀ VINH - VƯƠNG TRÍ NHÀN - NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét