Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Octavio Paz

ĐI TÌM THỜI HIỆN ĐẠI
(diễn từ nhận giải Nobel)
Tư tưởng về cái Hiện Đại là một thứ phẩm của quan niệm về lịch sử như một quá trình liên tục, thẳng duột và không thể được lặp lại. Dù các ngọn nguồn của nó nằm ở trong Do thái Cơ đốc giáo, tư tưởng về cái Hiện Đại là một sự đoạn tuyệt với học thuyết Cơ đốc giáo. Cơ đốc giáo đã phá bỏ thời gian chu kỳ của những người theo đa thần giáo. Cơ đốc giáo quan niệm rằng lịch sử không bị lặp lại, nó có một khởi thủy và sẽ có chung cục; thời gian liên tục là thời gian trần tục của lịch sử, là sân khấu hành động của những người đã ngã xuống, nhưng bị nhồi nhét vào thời gian thần thánh, không có khỏi thủy cũng chẳng có chung cục. Sau ngày Phán xử cuối cùng, trên thượng giới cũng như dưới địa ngục, sẽ chẳng có tương lai. Trong cõi Vĩnh Hằng không xẩy ra điều gì vì tất cả đã hoàn thiện. Thắng lợi của con người đối với tương lai. Thời gian mới, thời gian của chúng ta là thời gian thẳng đuột như quan niệm của Cơ đốc giáo nhưng lại mở về vô hạn và không phân biệt với cái Hiện Đại. Thời gian của chúng ta là thời gian của lịch sử thế tục. Thời gian không thể quay trở lại và mãi mãi không kết thúc, nó đang tiến về không phải sự chung cục mà là về tương lai. Mặt trời của lịch sử được gọi là tương lai và tên gọi của phong trào hướng tới tương lai là Tiến Bộ.

Đối với Cơ đốc giáo, thế giới - hoặc giả như trước đây được gọi là hai năm mươi, đời sống trần gian - là một địa điểm thử thách: linh hồn bị tiêu tan hay được cứu rỗi trên thế giới này. Đối với quan niệm mới, chủ thể lịch sử không phải linh hồn cá nhân mà là loại người, lúc này được hiểu như là một toàn thể lúc khác lại được hiểu qua một nhóm được chọn làm đại diện cho loài người, ví như các quốc gia phát triển của phương Tây, giai cấp vô sản, chủng tộc da trắng hoặc bất kỳ một nhóm người nào. Truyền thống truyền thuyết đa thần giáo và ky tô giáo đã đề cao Con Người, sự hoàn thiện, toàn mỹ. Chúng ta yêu mến sự Thay Đổi: động lực của sự tiến bộ và khuôn mẫu của các xã hội chúng ta. Sự Thay Đổi có hai hình thức biểu hiện được tôn vinh: tiến hóa và cách mạng, bước đều và nhảy vọt. Cái hiện đại là mũi nhọn của vận động lịch sử, và là sự hiện diện bằng xương thịt của tiến hóa hay của cách mạng đó là hai mặt của sự tiến bộ. Cuối cùng sự tiến bộ được thực hiện nhờ hành động nhân đôi của khoa học và của kỹ thuật, được áp dụng cho sự thống trị giới tự nhiên và cho sự sử dụng các của cải bao la của nó.


Con người hiện đại, tự khăng định mình như là con người lịch sử. Một số xã hội khác lại muốn tự khẳng định mình bằng những giá trị và tư tưởng ngược lại với sự thay đổi: những người Hy Lạp đầu độc nữ thần Polis và hoàn cảnh xung quanh mà họ không biết đến sự tiến bộ, sự quay trở lại vĩnh viến khiến cho Seneca cũng như một số kẻ khắc kỷ khác phải mất ngủ, thánh Augustin tin rằng sự chung cục của thế giới là đáng sợ, thánh Tomas làm một thang bậc cho con cháu Đấng Sáng Thế. Những tư tưởng và niềm tin tôn giáo ấy cái nọ theo cái kia đều bị từ bỏ. Hình như tôi cũng thấy rằng điều đó đã bắt đầu xảy ra đối với tư tưởng về sự tiến bộ, và do đó đối với nhãn quan của chúng ta về thời gian, về lịch sử và về chúng ta. Chúng ta đang chứng kiến buổi chạng vạng tranh tối tranh sáng của tương lai. Sự chìm xuống của tư tưởng về cái Hiện Đại và sự thăng lên của một quan niệm rất lơ mơ như quan niệm "hậu hiện đại", chúng không chỉ là những hiện tượng từng tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật và văn học mà còn là khung cảnh trong đó chúng ta sống cuộc khủng hoảng các tư tưởng và niềm tin tôn giáo cơ bản từng lay động con người suốt hai thế kỷ nay. Về vấn đề này trong nhiều dịp tôi đã đề cập khá đầy đủ. Ở đây, tôi chỉ có thể làm một bản tóm lược ngắn gọn.


Thứ nhất, Quan niệm về một quá trình mở tới vô hạn và đồng nghĩa với sự tiến bộ liên tục đã bị cấm. Hầu như tôi chỉ cần dẫn ra điều mà tất cả chúng ta đã biết: của cải thiên nhiên là có hạn và một ngày nào đó sẽ cạn kiệt. Ngoài ra, chúng ta đã gây nên tổn hại không thể bù đắp nổi đối với môi trường tự nhiên và chính nó đang bị đe dọa. Mặt khác, các công cụ của sự tiến bộ - khoa học và kỹ thuật - đã chứng minh với một sự sáng tỏ đáng sợ rằng: chúng có thể đễ dàng trở thành công cụ phá hoại. Cuối cùng sự tồn tại của vũ khí hạt nhân là một sự phản bác của tư tưởng về sự tiến bộ lịch sử. Một sự phản bác mà chỉ có thể gọi là sự phá hủy thôi.


Thứ hai: Vận may của chủ thể lịch sử, tức là của tập thể nhân loại trong thế kỷ XX. Rất ít khi các dân tộc và các cá nhân phải chịu bao đau khổ như ở thế kỷ này: hai cuộc chiến tranh thế giới, các thể chế chuyên chế được thiết lập trên cả năm châu lục, bom nguyên tử cuối cùng là sự lan truyền của trại tập trung, một trong những công cụ tàn bạo và chết người nhất mà loài người được biết tới. Những đóng góp to lớn của kỹ thuật là không thể kể hết nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh giết chóc, tra tấn, trước sỉ nhục và hạ cấp con người và mốt số tổn thương khác từng khiến hàng triệu người vô tội phải chịu đựng trong thế kỷ chúng ta.


Thứ ba: Niềm tin trong sự tiến bộ cần thiết. Đối với cha ông chúng ta những đổ nát của lịch sử - hài cốt, chiến trường hoang phế, thành phố đổ nát - không từ chối lòng tốt căn bản của quá trình lịch sử. Trường bắn và chế độ độc tài, chiến tranh và sự bạo liệt của các cuộc đấu tranh dân sự là cái giá của sự tiến bộ, là đồng tiền bằng máu phải trả cho Thượng đế của lịch sử. Một Thượng đế ư? Phải, một Thượng đế, đó chính là lý lẽ được thần thánh hóa và phong phú, theo như Hegel nói. Lý trí vờ vĩnh của lịch sử đã bị bốc hơi. Trong chính sự thống trị của trật tự, bình ổn, hợp tác - trong các khoa học chính xác và trong vật lý học - đã xuất hiện trở lại vài quan niệm xưa cũ về tai biết và thảm họa. Sự nổi loạn rùng rợn khiến tôi nghĩ đến những nỗi kinh hoàng của năm một ngàn và những đau đớn của người Azteca vào cuối mỗi chu kỳ vũ trụ của họ.


Để kết thúc tôi xin nói về: sự đổ nát của tất cả những giả định triết học và lịch sử từng mưu toan sự hiểu biết các quy luật của sự phát triển lịch sử. Những môn đệ của chúng, những người tin rằng họ là chủ nhân những chìa khóa lịch sử, đã xây dựng những Nhà nước hùng cường trên những kim tự tháp xác người. Những xây dựng kiêu ngạo ấy, được mệnh danh là để giải phóng con người, đã nhanh chóng biến thành các trại giam khổng lồ. Hôm nay chúng ta đã thấy chúng đổ sụp. Không phải những kẻ thù tư tưởng mà chính là sự mệt mỏi và khát vọng tự do của các thế hệ mới đã lật đổ chúng. Phải chăng đó là cái kết chung cục của các lý thuyết không tưởng? Đúng hơn đó là cái kết cục của tư tưởng lịch sử như là một hiện tượng mà sự phát triển của nó được người ta hiểu rất rõ. Thuyết quyết định lịch sử đã là một bóng ma đẫm máu và đắt giá. Lịch sử là không thể được nhìn rõ vì chủ thể của nó, con người: là sự không quyết định trong tính cách rồi.

Nhà thơ người Mexico Octavio Paz
Sự ôn lại này cho thấy rằng rất có thể chúng ta đang ở vào giữa ngày chung cục của một giai đoạn lịch sử và ngày khởi thủy của một giai đoạn khác. Kết cục hay là sự thay đổi của Thời Hiện Đại? Thật khó lòng mà biết được. Tóm lại, sự sụp đổ các học thuyết không tưởng đã để lại một khoảng trống lớn không chỉ ở những nước mà tư tưởng đó đã được thử nghiệm và bị thất bại mà còn có ở những nơi khác từng có rất nhiều người tràn đầy nhiệt tình và hy vọng đón chào nó. Lần đầu tiên trong lịch sử con người được sống dưới một vận may của bầu trời tinh thần phong quang và không như trước sống dưới bóng tối của những thiết chế tôn giáo và chính trị vừa áp chế vừa an ủi chúng ta. Các xã hội là lịch sử nhưng không phải tất cả mọi xã hội đều được dắt dẫn bởi một tập hợp các niềm tin tôn giá và các tư tưởng metahistorie. Xã hội chúng ta là xã hội đầu tiên đã được chuẩn bị để sống mà không cần có một học thuyết hậu metahistorie. Những giá trị tuyệt đối của chúng ta - tôn giá và triết học, nhân chủng học và thẩm mỹ học không còn là của tập thể mà là của cá thể. Kinh nghiệm là nguy hiểm.  Không thể biết nếu như các mối căng thẳng và mâu thuẫn của sự tư nhân hóa các tư tưởng, các kinh nghiệm, các niềm tin tôn giáo này, những thứ vốn thuộc về đời sống cộng đồng một cách truyền thống, trước đây liệu có làm tan vỡ tổ chức xã hội không. Lại một lần nữa con người sẽ có thể bị sở hữu bởi những cơn cuồng nộ tôn giáo xưa cũ, và của những kẻ cuồng tín dân tộc. Sẽ là khủng khiếp khi biết rằng sự sụp đổ của thần tượng trừu tượng của hệ tư tưởng sẽ là dự báo trước cho sự nổi dậy của các đam mê trong các bộ tộc, các bè đảng và các nhà thờ đã từng bị chôn vùi. Thật là bất hạnh, các dấu hiệu thẩy đều không yên lòng.

Nhà thơ Octavio Paz thời trẻ
Sự sụp đô của các hệ tư tưởng mà tội gọi là metahistorie (tức là những hệ tư tưởng đã chỉ ra một chung cục và một hướng đi tới cho lịch sử), bao gồm cả sự rời bỏ thầm lặng của những giải pháp toàn bộ. Chúng ta cứ cúi đầu thêm nữa, và thêm nữa với cảm giác tốt đẹp, trước những cách thức hạn hẹp để giải quyết những vấn đề chung. Việc thiết lập tương lai phải cẩn trọng. Nhưng thời hiện tại đòi hỏi không chỉ quan tâm đến những yêu cầu cấp thiết trước mắt mà còn đòi hỏi chúng ta một suy nghĩ toàn diện và hữu hiệu hơn. Đã từ lâu tôi tin và tôi càng tin mạnh mẽ hơn rằng buổi hoàng hôn của tương lai đã tuyên xưng sự hiện diện của ngày hôm nay. Nghĩ ngày hôm nay có nghĩa trước hết là khôi phục lại cái nhìn phê phán. ví dụ thắng lợi của kinh tế thị trường - một thắng lợi đã tạo ra sự vắng mặt đối phương - không thể là lý do duy nhất để mừng vui. Thị trường là một thủ pháp hữu hiệu, nhưng cũng như tất cả mọi thủ pháp (mecanismo) nó không có lương tri và lòng thương hại. Cần tìm ra phương pháp đưa nó vào xã hội để nó là sự biểu hiện của khế ước xã hội và là một công cụ công lý và công bằng. Các xã hội dân chủ phát triển và đã đạt tới một sự thịnh vượng đáng được mơ ước, cũng vì vậy chúng là các đảo giầu có giữa đại dương nghèo đói toàn cầu. Chủ đề về thị trường có một mối quan hệ rất chặt chẽ với sự độc hại của môi trường. Ô nhiễm không chỉ đầu độc bầu không khí, đầu độc các dòng sông, các cánh rừng mà còn đầu độc tâm hồn. Một xã hội bị thống trị của sự cuồng say nhằm sản xuất nhiều hơn nữa để tiêu thụ nhiều hơn nữa càng có khuynh hướng biến tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật, tình bạn, tình yêu và cả chính con người thành các đồ vật tiêu thụ. Tất cả rồi lại trở về đồ vật mà người ta mua, người ta xài và người ta ném vào sọt rác. Không một xã hội nào đã sản xuất ra nhiều đồ thải đi như  xã hội chúng ta. Những đồ thải vật chất bị thải đi và những đồ thải đạo đức bị thải đi.
Sự suy nghĩ bây giờ không loại bỏ tương lai cũng không quên quá khứ: thời hiện tại là địa điểm gặp gỡ của ba thời gian. Cũng không thể nhầm lẫn với một thứ chủ nghĩa khoái lạc dễ dãi. Cây khoái lạc không sinh trưởng trong thời quá khứ hay thời tương lai mà ngay trong chính thời hiện tại. Cái chết cũng là một tương lai của thời hiện tại. Chúng ta không thể từ chối cái chết vì nó là một phần của cuộc sống. Sống đẹp đòi hỏi phải chết đẹp. Chúng ta phải học để nhìn thẳng vào cái chết. Sáng và tối, tối và sáng liên tục thay đổi cho nhau, đó là thời hiện tại. Thời hiện tại là một hành tinh đã thống nhất hai mặt đó lại, đã thống nhất hành động và chiêm quan. Như vậy chúng ta có triết lý về thời quá khứ và thời hiện tại, về cái vĩnh hằng và cái hư vô, ngày mai chúng ta sẽ có một triết lý về thời hiện tại. Kinh nghiệm thơ ca có thể là mọt trong những cuộc sống của triết lý đó. Chúng ta hiểu gì về thời hiện tại? Chẳng hiểu gì hay gần như chẳng hiểu biết  gì. Nhưng các thi sĩ lại hiểu một cái gì đó: thời hiện tại là ngọn nguồn của những sự hiện hữu.

Nhiều lần tôi đánh mất mình và tìm lại thấy mình trong cuộc phiêu lưu đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện đại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời cổ đại nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Nó nói bằng ngôn ngữ Náhuatl, viết chữ Hán tượng hình từ thế kỉ IX và xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, gĩ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua cửa sổ nó biến mất. Thờ hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc vừa là các thời đại và vừa là các hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại cái quá khứ ngàn năm. Và trở thành một hình ảnh trù mặt của thời đồ đá mới trong thời hiện tại của chúng ta. Chúng ta truy tìm cái hiện đại trong những ẩn dụ không cạn kiệt của nó và không bao giờ chúng ta tóm được nó. Nó luôn luôn chuồn mất, mỗi lần gặp gỡ là một lần nó chạy trốn. Chúng ta vừa ôm được nó và ngay lập tức nó biến mất, hóa ra chỉ là một ít không khí. Cái hiện đại là khoảnh khắc, là con chim có mặt ở mọi nơi và không ở một nơi nào. Thời hiện tại tựa như một cá gì đó được bọc bởi một nhúm âm tiết. Chúng ta muốn giương cao nó lên một cách sống động nhưng nó vỗ cánh rồi biến mất tăm. Chúng ta còn lại hai bàn tay trắng. Thế là ngay lúc đó những cánh cửa của sự thụ cảm hé mở và ló ra cái thời khác, thời chân thực, thời mà chúng ta đi tìm mà không biết: đó là thời hiện tại, sự hiện diện.

Những bậc thầy văn chương - Lê Huy Hòa-Nguyễn Văn Bình (biên soạn) - Nhà xuất bản Lao Động

Murakami Haruki

Với tư cách là một người mơ ước phi thực tế”

(Toàn văn bài phát biểu của nhà văn Murakami Haruki tại lễ nhận giải thưởng quốc tế Catalunya)
Nguyễn Quốc Vương dịch từ  asyura2.com

Lời người dịch: Ngày 9/6/2011 tại buổi lễ nhận  giải thưởng quốc tế Catalunya (giải thưởng dành cho những người có cống hiến nổi trội cho lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) ở Barcelona Tây Ban Nha, nhà văn Murakami  Haruki, đã có bài phát biểu  mang tựa đề “Với tư cách là một người mơ ước phi thực tế” trong đó đề cập đến sự cố nhà máy điện nguyên tử Fukushima và khẳng định “người Nhật cần tiếp tục nói không với điện nguyên tử”.

Nhà văn Murakami Haruki, sinh năm 1949, hiện đang là một trong những tiểu thuyết gia Nhật Bản nổi tiếng ở cả trong và ngoài nước. Độc giả Việt Nam biết đến ông qua các tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt như:  “Rừng Na Uy”, “Kafka bên bờ biển”, “Biên niên ký chim vặn dây cót”.... Dưới đây là toàn văn bài phát biểu. 


Với tư cách là một người mơ ước phi thực tế”
Tôi đã từng đến thăm Barcelona vào mùa xuân hai năm về trước. Trong buổi lễ kí tặng, độc giả đã đến dự đông tới mức đáng ngạc nhiên. Độc giả xếp thành hàng dài và tôi đã mất tới một tiếng rưỡi mà vẫn chưa thể kí hết. Tại sao lại tốn thời gian nhiều đến như thế? Đó là vì rất nhiều độc giả nữ đã mong muốn được hôn tôi. Vì thế mà đã mất rất nhiều thời gian.


Cho tới lúc này tôi cũng đã từng tiến hành các buổi kí tặng ở nhiều thành phố trên thế giới nhưng việc độc giả nữ đòi hôn thì chỉ có duy nhất ở Barcelona. Chỉ mỗi việc này thôi cũng đủ làm tôi hiểu Barcelona  là thành phố tuyệt diệu đến cỡ nào. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi một lần nữa được trở lại thành phố có nền văn hóa cao và lịch sử lâu đời này.


Nhưng tiếc rằng ngày hôm nay tôi sẽ không nói chuyện về nụ hôn mà sẽ  nói về một chuyện trầm trọng hơn  chút ít.


Như quý vị đã biết, vào lúc 2 giờ 46 phút ngày 11 tháng 3 vừa qua ở vùng Đông bắc Nhật Bản đã xảy ra trận động đất khổng lồ.  Đấy là trận động đất có quy mô lớn đến nỗi sự chuyển động của trái đất đã trở nên nhanh hơn một chút và ngày đã ngắn lại chừng 1,8 micro giây.


Bản thân thiệt hại do động đất gây ra là rất lớn và vết thương khủng khiếp do sự tấn công của sóng thần sau đó vẫn còn lưu lại. Có nơi sóng thần đã đạt tới độ cao 39m. Khi nói 39m điều đó có nghĩa là dù có chạy lên tầng 10 của tòa nhà thông thường cũng không thoát được. Những người ở gần bờ biển đã không chạy kịp và có gần 24.000 người đã trở thành vật hi sinh trong đó có chừng 9000  người hiện vẫn còn mất tích. Những người này đã bị con sóng khổng lồ vượt qua đê chắn cuốn đi và thi thể hiện vẫn chưa được tìm thấy. Có lẽ rất nhiều người hiện đang chìm sâu dưới đáy biển lạnh lẽo. Khi nghĩ tới điều đó và tưởng tượng rằng giả sử như mình lâm vào cảnh ấy, tôi thấy ngực mình thắt lại. Cả những người sống sót  phần đông mất gia đình hoặc người thân, mất cả nhà cửa,  tài sản, cộng đồng và cả nền móng của cuộc sống. Cũng có những thôn làng bị xóa sổ hoàn toàn. Chắc chắn rằng rất nhiều người đã bị cướp đi niềm hi vọng sống

Là người Nhật, điều đó dường như có nghĩa rằng người ta phải luôn chung sống với thiên tai.  Đại bộ phận đất đai Nhật Bản từ mùa hạ tới mùa thu đều có bão đi qua. Hàng năm đều phải chịu thiệt hại lớn và nhiều người chết. Ở các địa phương cũng có các núi lửa hoạt động. Và tất nhiên là có động đất. Quần đảo Nhật Bản nằm ở góc phía đông đại lục châu Á, giống như đang nằm trên một chiếc đĩa ở vào vị trí rất nguy hiểm. Nói theo cách của chúng tôi thì đấy là chuyện giống như  sống trên cái ổ động đất.


Người ta có thể biết được ở chừng mực nào đó thời gian và đường đi của bão nhưng người ta không thể dự đoán được động đất. Chỉ có thể biết được một điều duy nhất là trận này không phải là sự kết thúc mà một trận động đất lớn khác trong tương lai chắc chắc sẽ lại xảy ra.  Rất nhiều học giả dự báo rằng có thể trong khoảng thời gian từ 20 tới 30 năm tới, khu vực xung quanh Tokyo sẽ lại diễn ra trận động đất quy mô lớn 8 độ. Điều  đó có thể là 10 năm sau hoặc cũng có thể là ngay ngày mai. Giả sử như một đô thị lớn có dân cư tập trung đông đúc như Tokyo bị động đất kiểu có tâm chấn ngay ở phía dưới thì  không một ai biết được chính xác thiệt hại sẽ là bao nhiêu.


Cho dẫu thế thì 13 triệu người sống ở trong nội đô Tokyo hàng ngày sẽ vẫn tiếp tục sống cuộc sống “bình thường”. Mọi người cũng vẫn sẽ nhảy lên những chuyến tàu điện đông nghẹt người để đi làm và lao động trong những tòa nhà cao tầng. Tôi chưa từng nghe thấy dân số Tokyo đã  sụt giảm đi sau trận động đất lần này.


Tại sao? Có thể quý vị  sẽ hỏi như thế. Tại sao ở một nơi đáng sợ như thế mà rất đông mọi người lại phải sống ở đó như một điều đương nhiên? Nỗi sợ hãi đã làm cho đầu óc của họ có vấn đề cả rồi sao.


Trong tiếng Nhật có từ vô thường (mujo). Đó là việc sự vật không phải bao giờ cũng chỉ tiếp tục giữ nguyên một hình thái thông thường. Tất cả mọi vật sinh ra ở thế giới này cuối cùng đều biến mất và tất cả sẽ tiếp tục biến đổi chứ không hề dừng lại. Chẳng có chỗ nào tồn tại sự ổn định vĩnh viễn hay bất biến bất diệt như mong muốn. Đấy là thế giới quan đến từ đạo Phật nhưng do  lối suy nghĩ “vô thường” này so với tôn giáo lại có đôi chút khác biệt, cho nên nó đã gắn chặt vào tinh thần người Nhật Bản và được lưu truyền không hề thay đổi từ thời cổ đại với tư cách là trạng thái tâm lý mang tính dân tộc.


Quan điểm “tất cả chỉ là thoáng qua” có thể coi như là thế giới quan có tính đầu hàng. Đấy là lối suy nghĩ cho rằng con người dẫu có bơi ngược dòng chảy của thiên nhiên thì tất cả cũng chỉ là vô ích. Tuy nhiên người Nhật trong thứ có vẻ như là đầu hàng đó lại sáng tạo cái đẹp tích cực.


Nếu nói về  thiên nhiên thì mùa xuân chúng tôi yêu hoa anh đào, mùa hạ yêu đom đóm và mùa thu yêu lá đỏ. Chúng tôi đã nồng nhiệt thưởng thức những thứ đó cùng nhau theo thói quen và gần như coi nó là một chân lý hiển nhiên. Những nơi nổi tiếng về hoa anh đào, những nơi nổi tiếng về đom đóm, những nơi nổi tiếng về lá đỏ khi mùa tới đều đông nghẹt và việc đặt phòng khách sạn trở nên vô cùng khó khăn.

Tại sao vậy?


Đó là do cả hoa anh đào, đom đóm và lá đỏ đều mất đi vẻ đẹp trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi. Chúng tôi đã đến tận những nơi xa xôi để được nhìn tận mắt giây phút vinh quang đó. Và điều đó không phải chỉ đẹp không thôi mà hơn thế khi nhận thức được sự tuyệt vọng rơi, sự biến mất của ánh sáng nhỏ nhoi, sự mất đi sắc màu tươi tắn ngay trước mắt, chúng tôi cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm. Đỉnh điểm của cái đẹp qua đi rồi biến mất đã tạo ra sự an tâm.


Trong thế giới tinh thần như thế, tôi không hề biết kết cục thì thiên tai đã tác động như thế nào.  Tuy nhiên chúng tôi đã vượt qua những thiên tai liên tiếp dội đến và ở một ý nghĩa nào đó, chúng tôi chấp nhận nó như là thứ “không có lựa chọn nào khác” và việc cùng nhau khắc phục thiệt hại để tiếp tục sống trở thành điều đương nhiên. Hoặc là cũng có thể những trải nghiệm đó đã có ảnh hưởng tới ý thức về cái đẹp của chúng tôi.


Trong trận động đất lần này gần như toàn bộ người Nhật đã bị sốc nặng, ngay cả những người vốn đã quen với động đất cho đến lúc này vẫn còn rùng mình bởi quy mô lớn của thiệt hại. Họ cảm thấy bất lực và lo lắng về tương lai của đất nước.


Nhưng cuối cùng chắc chắc chúng tôi  sẽ  xốc lại tinh thần và đứng lên hướng tới phục hưng. Về điều đó thì tôi không hề có chút gì lo lắng. Chúng tôi là dân tộc đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử bằng phương cách như thế. Cho dù ở thời điểm nào đi nữa, chúng tôi không thể ngã gục vì cú sốc. Chúng tôi sẽ xây sửa lại những ngôi nhà đã đổ nát, sẽ phục hồi những con đường bị hư hại.

Xét đến cùng thì chúng tôi là những kẻ ở nhờ trên hành tinh gọi là trái đất này. Chúng tôi không thể yêu cầu rằng hãy cho chúng tôi sống ở chỗ này chỗ kia. Cho dù có rung lắc chút ít đi nữa thì cũng không thể vì thế mà có thể nói lời phàn nàn. Bởi chuyện lâu lâu lại rung lắc là một thuộc tính của trái đất. Cho dù thích hay không thích thì chúng tôi cũng chỉ còn có cách cùng chung sống với thiên nhiên mà thôi.

Điều mà tôi muốn kể ở đây là chuyện về những thứ không thể phục hồi một cách giản đơn như nhà cửa hay đường sá. Ví dụ như luân lý hay quy phạm. Những thứ đó không phải là vật thể có hình dạng. Một khi đã mất đi không bao giờ có thể lấy lại một cách đơn giản. Bởi vì đó không phải là thứ mà chỉ cần có máy móc, có nhân lực tập trung lại, có nguyên liệu là có thể tạo ra.


Điều tôi đang nói tới, nói một cách cụ thể đó là chuyện về nhà máy điện nguyên tử Fukushima.


Quý vị có lẽ cũng đã biết, trong số 6 lò phản ứng hạt nhân bị thiệt hại vì động đất và sóng thần ở Fukushima, có ít nhất 3 lò vẫn chưa được phục hồi và hiện vẫn đang phát tán phóng xạ ra vùng xung quanh. Hiện tượng tan chảy đã xảy ra, đất đai ở vùng xung quanh bị ô nhiễm và có lẽ nước thải có chứa nồng độ phóng xạ cao đã chảy ra vùng biển xung quanh. Gió cũng đem nó lan ra phạm vi rộng hơn.


Có đến 10 vạn người đã phải dời bỏ khu vực xung quanh nhà máy điện nguyên tử. Ruộng vườn, đồng cỏ, nhà máy, các khu phố bán hàng, bến cảng…đã bị bỏ rơi thành chốn không người. Cũng có thể những người từng sống ở nơi đó sẽ không thể trở về nơi cũ. Những thiệt hại đó không phải chỉ có ở Nhật Bản, mà thật có lỗi khi biết nó sắp gây ảnh hưởng tới cả các nước láng giềng.

Tại sao tấn thảm kịch này lại xảy ra, nguyên nhân đó gần như đã rõ.  Đó là do những người xây dựng nhà máy điện nguyên tử đã không dự tính đến sự tấn công của những cơn sóng thần khổng lồ. Có một vài chuyên gia trước đó đã chỉ ra các cơn sóng thần có quy mô tương tự đã tấn công khu vực này và yêu cầu sửa đổi tiêu chuẩn an toàn nhưng công ty điện lực đã không tiếp thu một cách nghiêm túc. Chuyện đầu tư một món tiền khồng lồ chỉ vì cơn sóng thần có thể chỉ diễn ra một lần trong khoảng thời gian mấy trăm năm là điều các công ty vì lợi nhuận không hề hoan nghênh.


Hơn nữa, chính phủ nơi lẽ ra phải quản lý chặt chẽ đối sách an toàn của các nhà máy điện nguyên tử cũng đã làm ngơ trước việc hạ thấp mức độ tiêu chuẩn an toàn do muốn xúc tiến chính sách điện nguyên tử.


Chúng tôi cần phải điều tra sự tình đó và làm rõ những sai phạm nếu có. Do những sai lầm như thế mà ít nhất đã có tới 10 vạn người phải bỏ đất đai và thay đổi cuộc sống. Chúng tôi không thể không căm giận. Đấy là chuyện đương nhiên.


Cũng không rõ vì sao người Nhật vốn là dân tộc không mấy khi nổi giận. Người Nhật có sở trường chịu đựng nhưng việc bộc phát cảm tính lại không phải là điểm mạnh. Ở điểm như thế có thể sẽ có chút khác biệt với người dân Barcelona. Nhưng lần này quả thật quốc dân Nhật Bản đã tức giận nghiêm trọng.


Tuy nhiên cùng với điều đó chúng tôi cũng phải nghiêm khắc chỉ trích bản thân bởi đã tha thứ cho sự tồn tại của cơ cấu méo mó như thế hoặc là đã im lặng thừa nhận nó. Bởi vì tình thế lần này là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới luân lý và quy phạm của chúng tôi.


Giống như quý vị đã biết, người Nhật chúng tôi trong lịch sử là quốc dân duy nhất có trải nghiệm bị ném bom hạt nhân. Tháng 8 năm 1945, hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị quân Mĩ ném bom nguyên tử khiến hơn  20 vạn người thiệt mạng. Những người chết đa phần là người dân thường phi vũ trang. Tuy nhiên ở đây tôi sẽ không nói tới việc đúng sai.


Điều tôi muốn nói ở đây là việc không chỉ 20 vạn người chết sau vụ ném bom mà phần lớn những người sống sót về sau cũng khổ sở vì các căn bệnh do ảnh hưởng nhiễm xạ và mất sau đó  một thời gian. Chúng tôi đã biết được chất phóng xạ  để lại di chứng nặng nề như thế nào đối với thế giới, với con người  dựa trên sự mất mát của những người như thế.


Những bước đi của Nhật Bản sau chiến tranh dựa trên hai nền tảng chính. Một là sự phục hưng kinh tế và hai là sự từ bỏ chiến tranh. Cho dù có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dùng vũ lực, xây dựng kinh tế giàu có và duy trì hòa bình là  hai điều đã trở thành phương châm mới của quốc gia Nhật Bản.


Ở tấm bia an ủi vong linh những người đã chết vì bom nguyên tử ở Hiroshima có khắc những từ sau:

“Xin hãy ngủ yên. Bởi vì sai lầm sẽ không lặp lại”


Đấy là những lời thật tuyệt vời. Chúng tôi vừa là nạn nhân đồng thời lại cũng là thủ phạm. Ở đấy đã bao gồm ý nghĩa như thế. Trước sức mạnh ghê gớm của hạt nhân chúng tôi ai cũng là nạn nhân và ai cũng là thủ phạm. Ở phương diện bị đặt trong mối đe dọa bởi sức mạnh này tất cả chúng tôi là nạn nhân và ở phương diện phô bày sức mạnh đó và rồi cả ở điểm không ngăn chặn việc sử dụng sức mạnh đó tất cả chúng tôi lại là thủ phạm.


Và rồi bây giờ 66 năm sau vụ ném bom nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử Fukushima 1 đã phát tán phóng xạ suốt 3 tháng và tiếp tục làm ô nhiễm thổ nhưỡng, biển, không khí ở khu vực xung quanh. Chưa có ai biết được khi nào thì chặn được phóng xạ và chặn nó như thế nào. Đây là thảm họa hạt nhân lớn lần thứ hai trong lịch sử mà người Nhật đã trải qua nhưng lần này không phải là chuyện bị ai nó ném bom. Chính người Nhật chúng tôi đã tạo ra, tự tay mình gây ra sai lầm,  tự mình làm mất lãnh thổ, tự mình làm hại cuộc sống của bản thân.


Tại sao lại nên nông nỗi đó? Cảm giác cự tuyệt hạt nhân trong chúng tôi vốn đã tiếp tục duy trì suốt trong thời gian dài sau chiến tranh nói tóm lại đã biến đi đâu? Xã hội hòa bình và giàu có mà chúng tôi nhất quán theo đuổi đã bị cái gì cướp mất và bẻ cong đây?

Lý do thật đơn giản. Đó là “ hiệu suất”


Lò nguyên tử là hệ thống phát điện có hiệu suất tốt, các công ty điện lực đã cho rằng như vậy. Tức là hệ thống đem lại lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, chính phủ Nhật Bản,  đặc biệt sau vụ khủng hoảng dầu mỏ,  đã có mối nghi ngờ  đối với tính ổn định của nguồn cung cấp dầu và dần dần xúc tiến các nhà máy điện nguyên tử với cách như là quốc sách. Các công ty điện lực đã vung ra một khoảng tiền lớn với tư cách là phí tuyên truyền, mua các phương tiện truyền thông và gieo cấy vào quốc dân ảo tưởng về độ an toàn của nhà máy điện nguyên tử.


Và rồi khi nhận ra thì đã có đến 30 phần trăm lượng điện của Nhật Bản phụ thuộc vào điện nguyên tử. Trong lúc quốc dân luôn không được rõ thì Nhật Bản, quốc đảo nhỏ hẹp và nhiều động đất, đã trở thành nước đứng thứ ba thế giới về số lượng nhà máy điện nguyên tử.


Một khi đã vậy thì không thể nào quay lại. Một sự đã rồi.  Đối với những người ôm mối lo lắng về sự nguy hiểm của nhà máy điện nguyên tử thì câu hỏi “À, nếu thế thì đối với anh có thiếu điện cũng không sao phải không?” luôn được chĩa vào họ. Trong lòng quốc dân tư tưởng cho rằng “ừ thì có phụ thuộc vào điện nguyên tử đấy nhưng mà làm gì có cách nào khác” đã lan rộng. Ở Nhật Bản, một nơi nóng ẩm, vào mùa hè mà không dùng điều hòa thì ngang bằng với địa ngục. Những người đặt dấu chấm  hỏi với điện nguyên tử đã bị gán cho danh hiệu “Những người  mơ ước phi thực tế”.


Và cứ thế chúng tôi có mặt ở đó. Lò nguyên tử,  nơi chắc chắn đã có hiệu suất cao giờ đây đã rơi vào trạng thái kinh khủng giống như địa ngục đã mở toang cánh cửa. Đấy là thực tế.


Hiện thực “hãy nhìn vào thực thế”, thứ mà những người xúc tiến điện nguyên tử chủ trương thực ra chẳng phải thực tế cũng chẳng phải là bất cứ thứ gì khác, chẳng qua nó chỉ là một thứ “tiện lợi” bề ngoài. Nó được bọn họ đánh tráo thành “thực tế” để thay thế cho luân lý.


Đây là sự sụp đổ của thần thoại “sức mạnh kĩ thuật”, thứ Nhật Bản đã tự hào suốt một thời gian dài đồng thời việc  tha thứ cho sự “thay thế” ấy là sự thảm bại về quy phạm và luân lý của người Nhật chúng tôi. Chúng tôi chỉ trích công ty điện lực và chỉ trích chính phủ. Đó là chuyện đương nhiên và cần thiết. Tuy nhiên đồng thời chúng tôi cũng không thể không tố giác chính mình. Chúng tôi vừa là nạn nhân đồng thời cũng là tội phạm. Không thể không nhìn thẳng vào điều đó. Nếu không làm vậy thì chắc chắn ở đâu đó thất bại tương tự sẽ lại xảy ra.

 “Xin hãy ngủ yên. Bởi vì sai lầm sẽ không lặp lại”


Chúng tôi cần phải khắc vào trong tim những lời đó một lần nữa.

Tiến sĩ Robert Oppenheimer trong đại chiến thế giới thứ hai là nhân vật trung tâm trong việc phát triển vũ khí nguyên tử nhưng khi biết được thảm cảnh Hiroshima và Nagasaki, ông đã bị sốc nặng.  Và ông đã hướng về tổng thống Truman nói thế này:

“Thưa tổng thống, hai bàn tay tôi đang vấy máu”


Tổng thống Truman đã lấy ra chiếc khăn tay trắng được gấp rất đẹp và nói: “ Hãy dùng nó để lau đi”


Tuy nhiên khỏi cần phải nói cũng biết chiếc khăn tay thanh khiết có thể lau sạch máu sẽ không tìm đâu thấy trên thế giới này.


Người Nhật chúng tôi cần tiếp tục nói không với hạt nhân. Đấy là ý kiến của tôi.


Chúng tôi cần phải tập trung sức mạnh kĩ thuật, tập trung trí tuệ và đầu tư vào tư bản xã hội để phát triển năng lượng có hiệu quả thay thế cho năng lượng nguyên tử ở cấp độ quốc gia. Cho dù khắp thế giới có cười chế giễu:  “không có năng lượng nào có hiệu suất tốt như năng lượng nguyên tử. Người Nhật không dùng nó thật là ngu” đi chăng nữa chúng tôi vẫn cần phải tiếp tục duy trì sự dị ứng với hạt nhân và không thể thỏa hiệp.  Lẽ ra chúng tôi  đã phải coi việc khai phát nguồn năng lượng mới không dùng hạt nhân là vấn đề trung tâm trong bước đi của Nhật sau chiến tranh thế giới thứ hai.


Đây chắc chắc là cách thể hiện trách nhiệm tập thể của chúng tôi đối với những nạn nhân đã chết ở Hiroshima và Nagasaki. Đối với Nhật Bản thì quy phạm và luân lý cốt tủy đồng thời cũng là thông điệp xã hội này là cần thiết. Đó  đã là cơ hội lớn để người Nhật chúng tôi cống hiến thực sự cho thế giới. Tuy nhiên trên con đường phát triển kinh tế với tốc độ cao, chúng tôi đã bị cuốn đi bởi tiêu chuẩn dễ dãi gọi là “hiệu suất” và chúng tôi đã đi lạc khỏi con đường quan trọng đó.


Giống như trước đó tôi đã trình bày, cho dù có trầm trọng, bi thảm như thế nào chăng nữa, chúng tôi cũng vẫn có thể vượt qua những thiệt hại của thiên tai. Và hơn nữa,  cũng có trường hợp bằng việc chinh phục nó, tinh thần con người sẽ trở nên mạnh mẽ, sâu sắc hơn. Rồi thế nào chúng tôi cũng sẽ làm được điều đó.


Việc tái xây dựng các con đường, tòa nhà bị hư hại sẽ  là công việc của những người có chuyên môn. Nhưng khi tiến hành tái sinh luân lý và quy phạm đã mất thì lại là công việc của tất cả chúng tôi. Chúng tôi sẽ tiến hành công việc xuất phát từ cảm xúc tự nhiên thương tiếc những người đã mất, quan tâm đến những người khổ sở vì thiên tai và không dửng dưng trước nỗi đau cùng vết thương của họ.  Công việc đó chắc chắn sẽ cần đến sự nhẫn nại  đơn sơ và thầm lặng. Chúng tôi phải phối hợp sức mạnh của mọi người để làm việc giống như vào buổi sáng mùa xuân đẹp trời, từng người trong làng tập trung lại để đi ra đồng làm đất và gieo hạt. Hình thức sẽ là từng người làm những việc mình có thể nhưng trái tim thì phải hợp làm một.


Trong công việc tập thể lớn lao này chắc chắn sẽ có phần liên quan tới chúng tôi những tác giả chuyên nghiệp, những người lấy từ ngữ làm chuyên môn. Chúng tôi phải tạo ra sự liên lạc giữa luân lý, quy phạm mới với những từ ngữ mới. Và rồi chúng tôi phải làm nảy mầm những câu chuyện mới và làm nó mọc lên  ở nơi đó. Và đấy là câu chuyện mà chắc chắn chúng tôi sẽ cùng sở hữu. Nó chắc chắn sẽ là câu chuyện mang nhịp điệu khuyến khích con người giống như bài hát gieo hạt trên thửa ruộng. Chúng tôi trước đó có lẽ đã làm như thế và tái thiết lại nước Nhật vốn bị chiến tranh phá hủy. Chúng tôi  không thể không quay lại điểm xuất phát đó một lần nữa.


Giống như tôi đã nói ở phần đầu, chúng tôi đang sống trong thế giới “vô thường” liên tục đổi thay. Những sinh mệnh sinh ra chỉ là sự đổi thay và cuối cùng thì diệt mà không có ngoại lệ. Con người bất lực trước sức mạnh to lớn của tự nhiên. Nhận thức tuyệt vọng như thế đã trở thành một tư tưởng cơ bản của văn hóa Nhật Bản. Tuy nhiên cùng với điều đó lòng  kính trọng đối với sự diệt của sự vật và quyết tâm thầm lặng đối với việc tiếp tục sống hết mình  cho dù là ở trong thế giới hiểm nguy đầy rẫy nguy cơ, tinh thần hướng về phía trước ấy cũng luôn sẵn có ở chúng tôi.


Tôi cảm thấy rất tự hào khi tác phẩm của mình đã được người  dân ở Catalunya đánh giá và đón nhận phần thưởng cao quý này. Chỗ chúng tôi sống cách rất xa và ngôn ngữ cũng khác. Vì thế nền văn hóa cũng khác. Tuy nhiên đồng thời cùng với điều đó, chúng ta đều gánh trên vai những vấn đề giống nhau, cùng có niềm vui và nỗi buồn như nhau và đều là công dân của trái đất. Chính vì thế mà  những  câu chuyện do các  tác giả người Nhật viết ra rất nhiều nhiều cuốn đã được dịch ra tiếng Catalunya và tới tay mọi người. Tôi cũng thế, tôi cảm thấy vô cùng sung sướng vì mọi người đã đồng cảm  với tôi về  câu chuyện.  Mơ  ước là công việc của tiểu thuyết gia. Tuy nhiên đối với chúng tôi, công việc quan trọng hơn là chia sẻ  với mọi người giấc mơ ấy. Nếu không có cảm giác đồng cảm đó  thì không phải là tiểu thuyết gia.


Tôi được biết rằng người dân ở Catalunya  trong lịch sử từ trước tới nay đã vượt qua rất nhiều khó khăn, có thời kì mặc dù gặp phải những điều vô cùng thảm khốc nhưng vẫn tiếp tục sống mạnh mẽ và bảo vệ được nền văn hóa phong phú.  Giữa chúng ta chắc chắn sẽ có nhiều điều cùng chia sẻ.


Tôi nghĩ rằng ở Nhật Bản, ở Catalunya, quý vị và chúng tôi nếu như cùng trở thành  “những người mơ mộng phi thực tế” để có thể tạo ra “cộng đồng tinh thần”  mở rộng vượt qua biên giới quốc gia và văn hóa như trên  thì thật là tuyệt diệu biết bao. Tôi cho rằng chính điều đó sẽ trở thành điểm xuất phát để tái sinh chúng ta, những người gần đây đã trải qua vô số thiên tai khủng khiếp và những cuộc khủng bố kinh hoàng. Chúng ta không được hoảng sợ  khi mơ ước. Bước chân của chúng ta không thể nào bị chùn lại bởi bầy chó tai họa có cái tên “hiệu suất” hay “tiện lợi”. Chúng ta cần phải trở thành “những người mơ ước phi thực tế” tiến lên phía trước bằng bước chân mạnh mẽ.  Con người đến lúc nào đó rồi sẽ chết và biến mất. Nhưng Humanity (nhà văn Haruki Murakami để nguyên từ tiếng Anh trong nguyên tác - chú thích của người dịch) thì còn lại. Đó là thứ sẽ được tiếp nhận, lưu truyền mãi mãi. Chúng ta trước hết phải là những người tin vào sức mạnh đó.

Cuối cùng, xin hãy cho phép tôi hiến tặng số tiền thưởng để giúp đỡ những nạn nhân của trận động đất và những người bị thiệt hại bởi nhà máy điện nguyên tử. Tôi vô cùng biết ơn người dân Catalunya và Generalitat de Catalunya (chính phủ tự trị Catalunya, trong nguyên tác nhà văn Haruki Murakami chỉ phiên âm từ này qua tiếng Nhật - chú thích của người dịch). Và tôi cũng muốn bày tỏ lòng tiếc thương  sâu sắc tới những người đã mất vì trận động đất ở Lurka vào ngày hôm trước

http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=16405&LOAIID=34&LOAIREF=5&TGID=2425

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2011

Đạo diễn Doãn Hoàng Giang

Đạo diễn Doãn Hoàng Giang - "Người đá lạc đội hình"

Được đào luyện chính quy để hành nghề diễn viên (ông cùng lứa với những diễn viên gạo cội nhất của nhà hát Kịch Việt Nam: Đoàn Dũng, Trần Tiến, Thế Anh, Hà Văn Trọng, Mỹ Dung, Tú Mai, Nguyệt Ánh...) ông rẽ ngang, học lóm tại hai cây đạo thụ trong nghề đạo diễn NSND Trần Hoạt, đạo diễn NSND Dương Ngọc Đức, và một mực trở thành... đạo diễn.

Đạo diễn sân khấu Doãn Hoàng Giang
Có hai tình yêu xuyên suốt cuộc đời ông: tình yêu với sân khấu và sân cỏ. Phát hiện lớn nhất của Doãn Hoàng Giang là phát hiện tính sân khấu trên sân cỏ, tính sân cỏ trong... sân khấu, và cũng chính ông đã thiết kế vở diễn theo lối các ông bầu bóng đá tính toán chiến lược cơ bản cho cầu thủ.

Các diễn viên trong vở diễn do ông đạo diễn được ông thực sự coi như những cầu thủ bóng đá.

Trong một hội thảo kéo dài nhiều số Tạp chí Sân khấu vào những năm 80, khi được phỏng vấn:

- Theo ông, thế nào là một vở kịch hay?

Ông trả lời thẳng và bất ngờ như một cú sút kẻ chỉ:

- Theo tôi, đó là vở kịch xui khiến nhiều bàn tay rút tiền ra khỏi túi, xỉa tiền vào ghi sê mua vé xem vở của tôi!

- Nghĩa là sao?

- Nghĩa là tôi quan tâm nhất đến việc người ta có bỏ tiền túi ra để xem anh làm cái trò gì trên sân khấu không! Sân khấu không có người xem là đại bại!

Điều khiến ông kinh hãi nhất là một ghi sê vắng như chùa bà Đanh, người qua kẻ lại dửng dưng, không ai buồn nghiêng ngó.

Ông khoái trá nhất là cảnh người xem chen vai thích cánh trước ghi sê hoặc phải mua vé chợ đen để kiếm lấy một tấm vé vào xem vở của ông như trường hợp Nhân danh công ty, từng gây dư luận một thời lừng lẫy.

Theo ông, khán giả bình thường chính là "Thượng đế của sân khấu", và cố tình sửa soạn cho họ một món ăn vừa túi tiền, hợp khẩu vị, bằng cách khai thác từ môn túc cầu tính kịch cao độ, sự bất ngờ, hồi hộp, căng thẳng, dễ hiểu, sống động đầy màu sắc hội hè... để làm giàu thủ pháp dàn dựng vở diễn của chính ông. Có thể xem Doãn Hoàng Giang là người duy nhất và nồng nhiệt nhất trong việc đưa đấu pháp bóng đá vào công cuộc dàn dựng vở diễn một cách thành công.

Vở diễn của ông bao giờ cũng mạch lạc, giản dị, đầy những "mảng miếng" hấp dẫn, ngon lành, thường xuyên điểm xuyết những trận cười nổ phá từ phía người xem, y hệt hiệu ứng dương gây ra cho người xem bởi những pha làm bàn đẹp mắt trong một trận bóng đá ngoạn mục.

Chưa đủ, ông còn đem nguyên một câu chuyện về một cầu thủ môn bóng đá dựng thành vở kịch Người đá lạc đội hình và dựng nguyên một khung thành bằng gỗ trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội với những pha bắt bóng... như thật của nhân vật thủ môn, cũng là nhân vật chính.

Doãn Hoàng Giang quả là một đạo diễn mang đậm ảnh hưởng tính cách mạnh mẽ, dứt khoát, tiết tấu gấp gáp, sôi sục của bóng đá. Ông không cho rằng người diễn viên giỏi là người kéo dài tuổi thọ trên sân khấu, mà cần phải biết rút lui đúng lúc như danh thủ Peele biết giã từ sân cỏ một cách vui vẻ.

Sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần, năm nay Doãn Hoàng Giang đã quá ngũ tuần, nhưng vẫn còn nguyên phong độ và tính cách của một ông bầu bóng đá, đạo diễn đầy kinh nghiệm sân khấu. Trước khai mạc World Cup 94, tôi gặp ông ở Hà Nội, ông vẫn thế, quần bò, áo ấm là một chiếc bludông kiểu nhà binh Mỹ, tóc dài buộc sau ót hơi "lập dị". Và trả lời rất Doãn Hoàng Giang khi tôi hỏi:

- Sắp hội diễn sân khấu nhỏ toàn quốc năm 94, anh đi vở nào không?

- Anh chỉ đi sân khấu lớn! Anh thích sân bãi rộng rãi, người xem đông. Anh không khoái đá ở "khu phố nhỏ", ít người xem.

- Thế bao giờ anh tái xuất giang hồ?

- Chờ sân khấu lớn trở lại, và xem xong Mundial 94.

Ông vẫn như ngày nào, người gây ra những cơn thịnh nộ cho giới phê bình sân khấu, người có những cử chỉ đạo diễn "tréo ngoe" khiến người xem bị quyến rũ, người không có một gia đình đầy đủ, nhưng tình yêu với cả sân khấu và sân cỏ đầy ắp trong người.

SÂN KHẤU VÀ TÔI - Nguyễn Thị Minh Thái - Nhà xuất bản Sân Khấu

Roland Barthes (2)


Roland Barthes đã "gii cu trúc" như thế đy!

Nguyễn Văn Dân


Như tôi đã có lần nói, Roland Barthes là một trong những đại diện của chủ nghĩa cấu trúc và sau đó là của chủ nghĩa giải cấu trúc (hay cấu trúc phân giải). Tuy nhiên ông luôn coi mình là nhà ký hiệu học. Điều này có thể được lý giải là ông nghiên cứu ký hiệu học theo xu hướng cấu trúc luận và giải cấu trúc luận.


Trong công trình Cuộc phiêu lưu ký hiệu học [L’aventure sémiologique (Seuil, Paris, 1985)], là cuốn sách xuất bản sau khi Barthes mất, ông đã trình bày quá trình thực hành ký hiệu học của ông thành ba giai đoạn:

1. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn “bừng ngộ”. Diễn ngôn là đối tượng đầu tiên trong công việc của ông ngay từ cuốn sách đầu tiên: Độ không của lối viết (1953).
2. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn của khoa học, là giai đoạn Barthes phân tích các yếu tố ký hiệu học.
3. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn của Văn bản (viết hoa). Ông nói: “Đối với tôi, giai đoạn này chủ yếu nằm giữa thời kỳ tôi viết L’Introduction à l’analyse structurale des récits (1966) và S/Z (1970), cuốn sách thứ hai có thể nói là phủ nhận cuốn thứ nhất, bằng cách từ bỏ mô hình cấu trúc và cầu viện đến việc thực hành Văn bản mang tính khác biệt một cách vô hạn” (tr. 12-13).

R.Barthes luôn được xem là một
trong những đại biểu của thuyết cấu trúc.
Về sau chính ông tham gia
vào hoạt động giải cấu trúc
Barthes định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản, theo nghĩa hiện đại và hiện tại (...), khác biệt một cách cơ bản với tác phẩm văn học: nó không phải là một sản phẩm thẩm mỹ, nó là một công việc biểu đạt; nó không phải là một cấu trúc [‘structure’], nó là một sự lập thành cấu trúc [‘structuration’]; nó không phải là một đối tượng, nó là một công việc và là một trò chơi; nó không phải là một tập hợp các ký hiệu khép kín, được ban cho một nghĩa mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra cái nghĩa đó, nó là một khối lượng các dấu vết di chuyển; cấp phán xét dành cho một Văn bản không phải là ý nghĩa, mà là Cái Biểu đạt, theo nghĩa ký hiệu học và tâm phân học của thuật ngữ này; Văn bản vượt trội hơn tác phẩm văn học theo nghĩa cũ;” (tr. 13). Ở phần cuối cuốn sách còn có các bài thực hành phân tích một số văn bản, theo cách phân tích các đơn vị từ vựng [“lexie”] mà Barthes gọi là “đơn vị đọc” [“unité de lecture”].

Barthes tuyên bố: “Mục đích của chúng tôi không phải là đi tìm nghĩa (...). [Mà] là đi đến chỗ quan niệm được, tưởng tượng được, và trải nghiệm được số nhiều của văn bản, trải nghiệm được sự mở cửa ý nghĩa của nó” (tr. 330).

Trong sự nghiệp của mình, Barthes không coi mình là nhà cấu trúc luận, mà trước sau ông chỉ coi mình là nhà ký hiệu học. Ông lại càng không dùng khái niệm “chủ nghĩa giải cấu trúc” hay “cấu trúc phân giải” cho giai đoạn cuối trong sự nghiệp của mình. Trên thực tế, tên gọi chủ nghĩa cấu trúc hay giải cấu trúc là do các nhà phê bình sau này gán cho ông. Và có một ý kiến khá thống nhất cho rằng công trình S/Z đánh dấu sự chuyển biến từ giai đoạn chủ nghĩa cấu trúc sang chủ nghĩa giải cấu trúc trong sự nghiệp học thuật của Barthes. Đây là giai đoạn phù hợp với giai đoạn thứ ba trong cách phân chia của ông dành cho sự nghiệp ký hiệu học của mình: giai đoạn của Văn bản. Điều này cũng lý giải tại sao đến 1977, ba năm trước khi bị tai nạn ôtô giết chết (1980), ông đã được bổ nhiệm giữ chức giáo sư bộ môn ký hiệu học văn học tại trường “Collège de France”.

Vậy Barthes đã dùng phương pháp giải cấu trúc để phân tích văn bản như thế nào? Trong S/Z, Barthes đã đưa ra 5 mã lý giải để phân tích: 1. Mã chú giải học; 2. Mã hành động; 3. Mã ngữ nghĩa; 4. Mã tượng trưng; 5. Mã văn hóa (còn được gọi là mã tham chiếu) [Roland Barthes, S/Z, Siglo veintiuno editores Argentina, Buenos Aires, 2004, tr. 14-15]. Căn cứ vào 5 mã này, Barthes chẻ văn bản ra thành các “đơn vị đọc” để phân tích. Tuy nhiên, số lượng nghĩa của mỗi đơn vị đọc có khác nhau tùy thuộc vào khả năng liên tưởng của chúng. Với cách làm này, ông đã mổ xẻ truyện ngắn Sarrasine của Balzac viết năm 1830, dài khoảng 30 trang, thành 561 đơn vị đọc để phân tích trong một công trình khảo cứu dài hơn 200 trang! Công bằng mà nói, sự phân tích của ông cung cấp cho người đọc một kho kiến thức bách khoa phong phú về văn hóa được ông cho là liên quan đến tác phẩm. Nhưng, như nhiều người nhận xét, ông đã tán quá rộng để nhiều khi vượt ra khỏi phạm vi thẩm mỹ của tác phẩm.

Để thấy được sự tán rộng của Barthes, tôi xin tóm lược nội dung truyện ngắn Sarrasine. Câu chuyện kể về mối tình đơn phương say đắm của chàng nghệ sĩ điêu khắc người Pháp Sarrasine với một kép hát giả gái nổi tiếng người Italia Zambinella. Khi phát hiện ra sự thật, Sarrasine đã tuyệt vọng định giết người tình giả gái của mình, nhưng chàng đã bị quân lính của Hồng y Giáo chủ Cicognara ở Roma giết chết. Ở đây, Balzac muốn lên án sự giả dối trong giới tăng lữ (vai nữ trên sân khấu phải do kép hát đóng thế), chế giễu cái bi kịch của con người tiểu tư sản trong việc đi tìm cái tuyệt đối trong hiện thực giả dối của buổi giao thời giữa chủ nghĩa phong kiến suy tàn với chủ nghĩa tư bản đang lên.

Đối với một câu chuyện như vậy, Barthes đã tán như thế nào? Ngay từ đầu, ông dành nửa trang để tán về cái tên tác phẩm: Sarrasine. Nhưng cuối cùng ông chỉ rút ra được hai nghĩa tương ứng với hai mã - mã chú giải học và mã ngữ nghĩa học: 1. Cái tên Sarrasine đặc trưng cho tên con gái có một bí ẩn mà phải đến giữa câu chuyện người đọc mới biết đó là tên con trai; 2. Cái tên đó có nữ tính [S/Z, tr. 12-13]. Tôi không biết những kết luận như thế có giúp gì cho độc giả không?

Đối với câu mở đầu truyện: “Tôi đang đắm mình trong những giây phút mơ màng say sưa thường làm mê mẩn mọi người, kể cả một con người lông bông, giữa những cuộc hội hè huyên náo nhất”, cũng được Barthes chẻ đôi sau chữ “say sưa” thành hai đơn vị đọc để bình luận bằng một đoạn văn dài hẳn một trang với những lời tán không cần thiết như: Câu này dẫn ta liên tưởng đến một loạt hình ảnh, trong đó có bức tranh vẽ chàng Adonis ngủ dưới ánh trăng treo trong một căn phòng của bá tước de Lanty, nơi người kể chuyện được mời đến dự vũ hội; để rồi Barthes đi đến kết luận ở nửa sau của câu nói trên: Câu này cho thấy sự giàu có của gia đình Lanty (mã ngữ nghĩa); nó còn là một sự biến cải của một cái có thể được xem như là một câu ngạn ngữ: “Hội hè càng náo nhiệt, mơ mang càng say sưa” [tr. 13-14]. Đó là cái “mã văn hóa”, tức cái mã bao gồm những hiểu biết, những vốn tri thức của con người về cuộc sống... đã được đúc kết thành tục ngữ, ngạn ngữ, châm ngôn...

Ngoài ra còn rất nhiều đơn vị đọc được đem ra phân tích một cách rất vô bổ. Ví dụ khi cô con gái bá tước de Lanty nói với một ông già bí ẩn: “Addio, addio!”, đã được Barthes giải nghĩa: * Mã hành động: nói “Tạm biệt”; ** Mã ngữ nghĩa: tiếng Italia [tr. 66]. Giải cấu trúc như thế này thì thật là kỳ quặc!

Hay đối với câu: “Sarrasine đi Italia năm 1758”, cũng được Barthes chú giải: * Mã hành động: đi Italia; ** Mã tham chiếu: niên đại (xem đơn vị đọc 181: năm 1758, Sarrasine 22 tuổi) [tr. 87]. Rồi đến đơn vị từ vựng: “khi, một buổi tối, chàng bước vào nhà hát Argentina” đã được tác giả chú giải là: * Mã hành động: “Nhà hát”: 1: hành động bước vào rạp hát [tr. 88]. Sau đó đến câu “Chàng bước vào và ngồi ở tầng dưới” được chú giải thành 2 đơn vị đọc là: + “Chàng bước vào”: * Mã hành động: “Nhà hát”: 2: hành động bước vào trong phòng của rạp hát; + “và ngồi ở tầng dưới”: ** Mã hành động: “Nhà hát”: 3: ngồi hẳn trong khán phòng [tr. 90]. Rồi đến câu: “Chẳng bao lâu chàng buộc phải rời khỏi nhà hát” được chú giải: * Mã hành động: “Nhà hát”: 9: ra khỏi nhà hát [tr. 99]. Câu: “Khi về đến nhà,” được chú giải: * Mã hành động: “Nhà hát”: 10: đi về nhà [tr. 101] (tức hành động thứ 10 kết thúc chuỗi hành động của Sarrasine khi đi xem hát – NVD). Ta có thể đặt câu hỏi: Chú giải như thế để làm gì? Chẳng lẽ một người đọc bình thường không thể hiểu được những câu trong văn bản đó hay sao mà Barthes phải làm cái công việc vô ích và vô nghĩa như vậy? Những đoạn chú giải ngoại thẩm mỹ và vô nghĩa như thế có rất nhiều trong S/Z.

Đặc biệt, trong Sarrasine có đoạn văn như sau: Khi xem Zambinella diễn và nghe nàng hát, Sarrasine mê mẩn trước sắc đẹp và giọng hát của nàng đến phát điên. Thế rồi giọng hát của nàng “đã tác động sâu sắc đến tâm hồn chàng đến nỗi nhiều lần chàng phải kêu lên một cách vô thức như thể bị thôi thúc bởi những cơn vui sướng co giật rất hiếm khi do niềm đam mê của con người gây ra.” Đến khi Sarrasine ra khỏi nhà hát thì chàng “gần như không thể đứng vững nổi trên đôi chân. Chàng cảm thấy đuối sức, yếu ớt như một người dễ bị kích động vừa trải qua một cơn giận dữ kinh khủng. Chàng cảm thấy vui sướng, hoặc có thể là đau đớn, đến nỗi mạng sống của chàng tan chảy ra như nước từ một chiếc bình bị đánh đổ. Chàng cảm thấy trong mình có một sự trống rỗng, một sự rã rời giống như tình trạng uể oải của những người vừa mới qua một trận ốm nặng. Bị xâm chiếm bởi một nỗi buồn khó tả, chàng bước tới ngồi trên bậc cửa của một nhà thờ. Ở đó, ngồi tựa lưng vào một chiếc cột, chàng chìm đắm vào cõi trầm tư mơ màng. Niềm đam mê đã làm cho chàng choáng váng như bị sét đánh”.
Đối với đoạn văn trên, Barthes đã tán rằng: Bị mê hoặc bởi sắc đẹp và giọng hát của Zambinella, Sarrasine đã có một cuộc làm tình say mê trong tưởng tượng với nàng đến độ “cực khoái” ngay tại chỗ ngồi xem hát. Rồi sau khi ra khỏi nhà hát, chàng vô thức đến ngồi tựa cột như là muốn tìm kiếm cái sinh thực khí của đàn ông (cột-dương vật) để nghỉ ngơi sau cuộc mây mưa mệt mỏi! [tr. 99].

Đúng là Sarrasine có khát khao muốn chiếm hữu Zambinella [“il la possédait”], nhưng nếu trong đoạn văn này mà ta hiểu từ “possédait” là “ăn nằm” theo một nghĩa của nó, thì không thể có câu tiếp theo: “đôi mắt chàng bám riết lấy nàng, chiếm lĩnh nàng”. Ở đây, chữ “possédait” chỉ có nghĩa là Sarrasine đang được chiêm ngưỡng Zambinella ở một khoảng cách rất gần. Hơn nữa, ở thời Balzac, động từ “posséder” không có nghĩa “ăn nằm”. Quả thực, tôi e rằng ngay cả những người có “đôi mắt kim cương” cũng không thể “nhìn” ra được cái nghĩa dung tục kia, nói chi những người có “đôi mắt thịt” như chúng tôi! Đây cũng là một trong những lý do giải thích tại sao nhiều nhà khoa học tự nhiên đã có dị ứng với những lý thuyết được gọi là “hậu hiện đại”, và họ gọi chúng là “sự vô nghĩa thời thượng” như có lần tôi đã nói đến (Xem bài Hiệu ứng cảnh tỉnh của ngụy tạo văn hóa-khoa học của tôi trên Văn nghệ số 21-2010). Thậm chí cả các nhà phê bình văn học của phương Tây cũng nghi ngờ, ví dụ một tác giả là Andres Luco (Anh) đã đặt câu hỏi rằng: “Nếu, như Barthes gợi ý, văn bản là một ‘thiên hà cái biểu đạt’, thì làm thế nào để xác định được những ‘khuôn mẫu’ cơ bản của những cái biểu đạt?”[1]
Có thể nói Barthes không quan tâm đến tính thẩm mỹ của tác phẩm và của phê bình văn học. Trước mắt ông chỉ có văn bản như là một cái cớ để ông bình tán. Cho nên trong 5 mã chú giải, ông không dành một chút quan tâm nào cho “mã thẩm mỹ”. Chính vì thế mà sau khi chú giải đơn vị đọc áp chót (560) của truyện Sarrasine, Barthes đã có một câu gần như kết luận về truyện ngắn này: “Sarrasine là sự rối loạn diễn đạt, là sự lưu thông hỗn loạn của ký hiệu, của tính dục và của sự may rủi” [tr. 181]. Không thấy có kết luận về tư tưởng, về xã hội, về thẩm mỹ!

Barthes là một nhà ký hiệu học phát triển phương pháp theo hướng cấu trúc luận và giải cấu trúc luận. Những tìm tòi của ông rất có ý nghĩa cho ngành ký hiệu học, nhưng không phải chúng đều có ý nghĩa giống nhau về mặt phê bình văn học. Có thể ông đã có những thành công khi mổ xẻ tác phẩm để phân tích theo góc độ văn hóa. Nhưng nhiều khi mổ xẻ xong rồi ông lại để đó, không gói ghém lại để rút ra những kết luận về mặt thẩm mỹ của tác phẩm. Vậy là, trong khi lý thuyết tiếp nhận chủ trương biến văn bản thành tác phẩm thông qua sự tiếp nhận của người đọc, thì Barthes lại làm ngược lại: biến tác phẩm của nhà văn thành văn bản, thậm chí là một văn bản xa lạ với tác phẩm. Mục đích của ông là chỉ đi tìm số nhiều của nghĩa một cách tự thân, chính vì thế mà tôi đã có lần nói đó là một xu hướng cực đoan, vô nguyên tắc, phá hủy tác phẩm văn học. Xét về mặt logic, người chủ trương đa nghĩa cũng chẳng có cơ sở và lý do nào để đảm bảo có được hiệu quả thẩm mỹ hơn cho công việc phê bình văn học, so với người chủ trương đi tìm một nghĩa cuối cùng cho tác phẩm văn học.

Điều cuối cùng: quan điểm giải cấu trúc coi bất cứ một hành vi thông tin nào cũng là đa nghĩa cũng chỉ là một quan điểm, không thể coi đó là chân lý phổ quát. Umberto Eco đã tuyên bố: chỉ có những tác phẩm văn học hiện đại mới có kết cấu mở. Có nghĩa là không phải tác phẩm nào cũng đa nghĩa. Và xét cho cùng: đơn nghĩa hay đa nghĩa đâu có phải là tiêu chí của giá trị thẩm mỹ!

[Vĩ thanh: Nhân tiện tôi xin có một nhận xét rằng, các nhà lý luận phương Tây rất có ý thức tìm tòi thử nghiệm các lý thuyết mới. Thậm chí nhiều người còn coi việc thử nghiệm này là một trò chơi. Cho nên họ sẵn sàng thay đổi lý thuyết như thể thay đổi trò chơi, bởi vì họ không lý tưởng hóa các lý thuyết của họ, mà chỉ coi đó là những thử nghiệm không ngừng trong trò chơi logic bất tận, trong đó các lý thuyết có thể đúng, có thể sai, có thể mâu thuẫn nhau, vì chúng thể hiện những cách nhìn đa dạng về đối tượng nhận thức của con người. Trong những cách nhìn này không có kẻ thắng người thua, mà chỉ có những sự đa sắc của những lá bài mà tính hấp dẫn của chúng nằm ở khả năng tổ hợp lá bài của các nhà lý luận.

Vì thế, tôi nghĩ chúng ta nên coi các thử nghiệm nói trên vừa là những nỗ lực tìm tòi cái mới, vừa là những trò chơi rèn luyện tư duy, không nên cứ thấy lấp lánh thì tưởng là vàng; nếu cứ thần thánh hóa mọi thử nghiệm lý thuyết thì sẽ đi đến chỗ ngộ nhận, thất vọng và mâu thuẫn. Lý thuyết giải cấu trúc của Barthes là một trong những trường hợp như vậy.

Tôi cũng xin nói thêm: Các nhà nghiên cứu của Việt Nam, khi đã có thành tựu trong một lĩnh vực lý thuyết nào đó, nên mạnh dạn đặt cho nó một cái tên mới của riêng mình (như tôi đã làm với phương pháp ngưỡng tâm lý của chính tôi), không nhất thiết lúc nào cũng phải mượn danh các lý thuyết phương Tây, khi mà các lý thuyết đó nhiều khi chỉ là những thử nghiệm trò chơi chưa phân định đúng sai? Thậm chí chúng ta cũng có thể phủ nhận cả những lý thuyết của họ như chính họ đã làm với bản thân họ nữa chứ! Không làm được như vậy, phải chăng là do một tâm thế tự ti?

Điều cuối cùng tôi muốn lưu ý: Sở dĩ Barthes xa rời thế giới thẩm mỹ là vì ông quan niệm “truyện” [“récit”] theo nghĩa rất rộng, rằng nó có mặt trong mọi thể loại văn hóa. Vì thế ông đã phân tích bất kỳ văn bản nào, thậm chí là cả một số đoạn của Kinh thánh. Danh hiệu “nhà lý luận văn học” dành cho ông không còn giữ nguyên ý nghĩa của nó nữa.][2]
Văn nghệ số 37, ngày 11-9-2010

Nguyễn Văn Dân