Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

John Updike


Cây bút về đời sống Mỹ hiện đại

Người hầu bàn hỏi John Updike cần thứ thức uống nào? Với bao nhiêu nhà văn lớn của nước Mỹ trước đây và bây giờ, câu trả lời – vào lúc 4 giờ chiều – thường giống như đặt bữa tiệc Giáng sinh của hãng IBM cho quầy rượu. Nhưng John Updike chọn dùng trà. Cùng lúc đó, từ một chiếc bàn bên cạnh, người ta hỏi nhau: “Có phải John Updike đấy không nhỉ?” Sự trùng hợp này làm người ta nghĩ đến sự nổi tiếng và sự tàn tạ, những hình phạt của thành tựu văn học ở Mỹ. Các nhà phê bình, đặc biệt là người Anh, hay viết về những áp lực đặc biệt đối với các tác giả Mỹ: một sản phẩm của cường độ chung về văn hóa và sự khát khao của một đất nước về một nền văn hóa có bản sắc. Người ta có thể thống kê về nạn nghiện rượu, tự tử, suy sụp thần kinh, những bài diễn thuyết điên cuồng, về những vụ tranh cử…
Tại bữa trà này, một nhà phê bình văn học, Mark Lawson hỏi Updike: “Xem ra anh còn tỉnh để có thể tránh đi được cái bẫy đó”.
“Phải rồi”, Updike đáp, chặc lưỡi, “Tôi vẫn còn sống nhăn răng”.
“Và mắn đẻ nữa chứ”. Lawson tiếp. Đấy là cách nói nhún. Knoff, nhà xuất bản của Updike, vừa rồi đã phải thu nhỏ lại khổ chữ của trang giới thiệu tác phẩm cùng một tác giả trên sách của ông để có thêm chỗ cho tác phẩm mới. Đến nay không kể truyện viết cho thiếu nhi, tất cả là 36 cuốn gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, khảo luận và hồi ký. Cuốn thứ 37, Hồi ức về chính quyền Ford (một cái tên sách tư liệu ngụy trang cho cuốn tiểu thuyết thứ 15 của ông) xuất bản vào cuối tháng 3-1993.
Updike bình phẩm: “Quả thỏa đáng khi nói là tôi đã ý thức được về tình trạng ốm yếu của bao nhiêu nhà văn trước tôi. Về mặt lịch sử mà xét, rất hiếm những nhà văn không bị rệu rã từ tuổi 35. Do một số lý do. Trước hết, Mỹ là một xứ sở tôn vinh cái trẻ trung. Người ta có thể thấy rất rõ trong trường hợp Hemingway. Viết trước hết từ sức sống trẻ trung, về một thế giới ngây thơ vẫn mang những hạt sương mai. Nhưng đến lúc sương tan, thì cả tác giả lẫn độc giả đều có thể trở nên chua chát”.
Vẻ măt của Updike bao giờ cũng ánh lên sự nhanh nhạy, hóm hỉnh. Bởi thế, vào tuổi 60, nhà văn Mỹ này có cặp mắt vẫn còn ướt át. Độc giả của ông cũng thế: như thể để chứng minh rằng ngòi bút của ông không chịu tuân theo cái biểu đồ mà ông vừa nói – Updike đã nhận hai giải Pulitzer vào tuổi 50 và 59.
Hầu bàn mang trà tới. Như chơi vĩ cầm với dụng cụ dùng trà, ông tiếp tục: “Thế hệ ấy, hầu hết đối với nam giới họ uống quá nhiều. Đặc biệt là Faulkner, gây ấn tượng mạnh là Hemingway, còn Fitzgerald thì vô hồi kỳ trận..”. Khi nói, cũng giống như khi viết, một dấu ấn mang phong cách Updike là việc chọn và đặt vị trí của trạng từ và tính từ: một sự hòa trộn và chọn lọc sinh động và đầy nhịp điệu. “Bản thân tôi, tôi cho thật là vui khi tìm thấy cách kéo dài năng lực mình như Henry James đã làm. Từ 35 năm trước, tôi đã bắt đầu nghề nghiệp của mình giống như một nha sĩ hành nghề, có mặt nơi làm việc hàng ngày và đúng giờ giấc”.
Trong vòng 15 năm qua, ngày nào ông cũng viết ít nhất là 1.000 từ. Còn việc chọn thức uống cũng là có lý do của nó: sức khỏe của ông cần kiêng rượu vì bệnh suyễn và kiêng cà phê vì huyết áp cao. Như một hoán dụ, sở dĩ Updike cần phải uống trà vì như ông nói: “Hemingway đối với tôi là một nhà văn xuất sắc của Mỹ trong thế kỷ XX. Văn phong của ông là cái mà chúng ta mơ ước. Nhưng sai lầm của ông mà ta có thể rút ra là: sự cạn kiệt quá sớm, sự lạm dụng sức khỏe của mình, sự liều lĩnh trong cuộc sống cá nhân, và sự lo sợ viết về cái mà ta có thể gọi là đời thường. Ông đã tìm mọi cách để tránh những đề tài về cuộc sống hàng ngày của người dân Mỹ. Còn tôi thì lại bằng mọi cách lặn ngụp trong đó…”
Trên biểu đồ sự nghiệp của sự nghiệp John Updike, trước tiên người ta coi ông là một nhà thơ viết văn xuôi, tiếp đó là một nhà văn đi sâu vào tình dục, và gần đây nhất là một người ghi chép lịch sử hiện đại Mỹ.
Sinh năm 1932 tại Pennsylvania từ một gia đình gốc Hà Lan, cha ông là một giáo học, còn mẹ là một nhà văn hạng hai. John Updike là con một, còn Pennsylvania là một bang lúc đó mang tính chất thôn dã lỗi thời.
Hết phổ thông, Updike trở thành họa sĩ biếm họa, sau đó làm cho tờ New Yorker và viết hàng loạt truyện ngắn và tiếp đó cho ra đời tác phẩm Thỏ, chạy đi (Rabbit, run) (1960).
Tác phẩm này kể lại giai đoạn gieo neo về đời sống hôn nhân năm 1959 của Harry “Rabbit” Angstrom, một dân gốc Hà Lan lì xì ở Pennsylvania, là một người mà thời hoàng kim là ngôi sao bóng rổ tại một trường cao đẳng thời trẻ. Sau đó cứ 10 năm Updike lại trở lại với Rabbit: Rabbit trở lại (1971), Rabbit giàu có (1981) và Rabbit yên nghỉ (1990). Những truyện này chen nhau những cảnh ngộ của cuộc sống gia đình: lúc đi tắm, vợ Harry dìm chết đứa con gái trong những tình huống khả nghi, khả năng về một cô bồ đã đẻ cho ông ta một đứa con bất hợp pháp. Sự kiện và tâm trạng của người Mỹ trong 4 thập kỷ - các vị tổng thống, chiến tranh, những quan hệ tình dục, các thời thượng văn hóa. Tất cả cuốn lại với nhau như những dòng thời sự do một nhà thơ viết ra.
Vào giữa hai tập đầu, Updike đã tạo ra một sự nổi danh khác: một nhà văn lang thang về tình dục. Những cặp vợ chồng (1969) nói về quan hệ bộ tam, bộ tứ dưới thời Kennedy – và vì thế người ta mệnh danh ông là nhà văn “porno” về hôn nhân, dưới cách viết bóng bẩy. Chính vì thế, lời kết tội thực sự đối với Updike là giọng văn “chải chuốt đáng ngờ”. Trước tiên là do những câu văn đầy cá tính của ông ánh lên bằng những tính từ và những hình ảnh khiến chúng trở nên kiêu sa về hình thức hơn là hàm chứa về nội dung. Người ta cũng còn cho văn ông là quá trau chuốt.
John Updike, thường được ví như nhà văn De Sade về hôn nhân và nhà văn Carlyle về tình trạng suy thoái của Mỹ. Ông có một cảm quan đặc biệt thính nhạy. Mà quả tình, chứng khịt mũi của ông do bệnh suyễn hay cố tình làm cho chiếc mũi đẹp của ông cứ run rẩy khiến người ta cứ liên tưởng tới một cần ăng ten hay một chú thỏ. Với những chi tiết sinh động trong tác phẩm của ông, người ta có cái ấn tượng là đầu óc ông thường xuyên tiếp nhận các dữ kiện. Cái cảm giác về một nhà văn không bao giờ rời bỏ công việc của mình còn được nhấn mạnh bỏ cách trò chuyện của ông, cách ăn nói và miêu tả của ông.
Những hồi ức về chính quyền Ford là một tác phẩm thuộc giai đoạn sau và phóng túng của một tác giả lớn, cố tình kết hợp một chủ đề cũ với một nỗi ám ảnh cá nhân mơ hồ. Chủ đề thứ nhất là ngoại hình và những méo mó của một gia đình, chủ đề thứ hai là chính quyền của James Buchanan, một đảng viên lập lờ của đảng Dân chủ, là Tổng thống cuối cùng trước cuộc nội chiến Mỹ. Là một người sinh trưởng ở Pennsylvania, Updike đã luôn bị thu hút bởi vị tổng thống duy nhất xuất xứ từ bang này. Năm 1974, ông đã viết một vở kịch có tên là Buchanan đang chết.
Trong cuốn tiểu thuyết mới, nhân vật Alf Clayton, một học giả ở New Hampshire đang biên soạn (vào năm 1990) một tài liệu về những năm của chính quyền Ford – một con người làm phó tổng thống rồi tổng thống mà không hề được bầu vào các chức vụ đó. Tổng thống Ford thường được đi kèm với từ “pardon” (xin lỗi) mang tính chất một câu hỏi bởi vì ông ta chẳng hiểu gì mấy về vấn đề người ta đặt ra với ông. Updike nhận xét: “Tôi ngạc nhiên về việc mặc dầu chúng ta có tất cả 42 tổng thống, thì rất có thể ông ta là người đã bị bỏ quên. Khi tôi nói với người ta về cái tít của cuốn tiểu thuyết, họ thường mỉm cười, tưởng là tôi nhắc đến một câu nói đùa cũ…”
Khi biên soạn tài liệu này, Clayton lại thường bị ám ảnh bởi nội dung tư liệu về tiểu sử của Buchanna – cả hai đều là hai tổng thống bị quên lãng từng cai trị đất nước Mỹ vào những thời kỳ khủng hoảng. Những ký ức sâu đậm cảu Clayton thời chính quyền Ford còn là chuyện của ông ta, năm 1974, muốn từ bỏ vợ con để sống với một cô bồ. Điệu nghịch lý là mặc dầu Ford là một kẻ vụng về bị hất ra khỏi chiếc giường, nhưng thời cầm quyền của ông lại trùng hợp với thời đại đỉnh cao của người Mỹ đua nhau chui vào giường ngủ. Đây là trào lưu của thập kỷ 70, thời đại tiền-SIDA, và các vấn đề hạn chế sinh đẻ và bệnh hoa liễu – ít nhất là trong các tầng lớp trẻ - chưa nảy sinh. Theo Updike, những năm giữa thập kỷ này hé ra một cánh cửa sổ cho một cơ hội tình dục giữa việc tìm ra thuốc tránh thai và sự phát sinh bệnh SIDA.
Người ta có thể tự hỏi: Nếu trong một cuốn truyện về thời này, liệu Updike có cảm thấy buộc phải giới hạn trong sinh hoạt tình dục an toàn không? Updike liền vặn lại: Có người nào trong gia đình Rabbit dùng bao tránh thai không nhỉ? Mà thực, việc đó đã được nói đến trong tập truyện cuối cùng của bộ tứ tiểu thuyết về Rabbit. Và Updike kiêu hãnh nói: “Đấy anh thấy không, cái tình dục an toàn hiện đại có trong truyện của tôi rồi đấy!”.
Về bộ tiểu thuyết saga Rabbit, độc giả của ông có phần miễn cưỡng chấp nhận cái chết của nhân vật. Họ hy vọng rằng ông sẽ cho ra tiếp tập năm vào bước ngoặt của thế kỷ sắp kết thúc vì giống như nhân vật huyền thoại Elvis, đã không thực sự chết, và có thể cung cấp cho những hồi ức về chính quyền Clinton hiện nay. Tác giả có vẻ suy nghĩ và nói hình như quả là ông đã viết bộ sách này khá hơn những tác phẩm khác và cũng có thể do cách để viết cuốn thứ năm: một tác phẩm về đám tang của gia đình Angstrom, hay vấn đề người con gái có phải là con của Harry hay không đã bỏ ngỏ. Lập luận của ông là ông sẽ 67 tuổi vào kỳ hạn xuất bản tới của một cuốn sách về Rabbit và có rất ít tiền lệ lịch sử trong văn học Mỹ khi một tác phẩm hàng đầu lại được in ra vào cái tuổi của ông. Nhưng các tác phẩm thứ 38, 39 và 40 của Updike đang chuẩn bị in – một tuyển tập thơ, một loạt truyện ngắn và một tiểu thuyết lấy bối cảnh Braxin. Ông đã thách thức cái mẫu của đời sống sáng tác trong văn học Mỹ thành công đến mức mà chừng nào ông còn gắn với tách trà thì chừng đó khả năng sinh đẻ giống như loài thỏ của ông vẫn có thể đảm bảo cho việc tái tạo ra một thiên tiểu thuyết nữa về Rabbit.
Có những nhà văn như thế - Hà Vinh-Vương Trí Nhàn – Nhà xuất bản Hội nhà văn

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Notes of... (3)

Bản lĩnh của lựa chọn.

Hôm nay nghe GS giảng, lại thấm thía nhiều điều.
Niềm tin theo ý tôi cũng chẳng khác chi không khí, nó có đó, hiện diện đó, mà ta thấy được đâu. Ai cũng cần không khí để thở và mấy ai dám dối lòng rằng không tin gì cả mà vẫn sống. Ít nhất, như Tào Tháo siêu đa nghi cũng phải tin vào chính tuyên ngôn của mình: "Thà ta phụ người còn hơn người phụ ta". Bác Nguyễn Huy Thiệp nói cũng chí lí lắm thay: "cả tin để sống".
Ờ, ít nhất cũng phải tin là: mình đang sống chớ.

Trở lại chuyện GS giảng. GS nói những người đầu tiên đi vào miền Nam Bộ là những kẻ bản lĩnh bậc nhất xứ ta. Có lẽ vậy. Điều đáng quý là bản lĩnh lựa chọn và hành động. Trong cuộc sống, lựa chọn luôn xảy ra, ngay cả khi không chọn gì cũng là một lựa chọn. Điều này rõ quá, không phải trò chơi chữ. Bản lĩnh chính là vượt qua thói đa nghi, lý tính cẩn trọng của bản thân hoặc hơn nữa là vượt qua sự lựa chọn cũng như vô thức của đám đông. Bản lĩnh lựa chọn đã hàm chứa khả năng vượt qua chính mình và tiềm ẩn năng lực vượt khỏi đám đông. Chính bản lĩnh lựa chọn đã khiến con người có ngày hôm nay: Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền/Trần Hưng Đạo, "trái đất quay quanh mặt trời" của Galilei Galileo... và biết bao lựa chọn đầy dũng khí khác.

Nếu hỏi người ta chọn gì
- Giàu hoặc nghèo: đa số chọn giàu
- Giỏi hoặc dở: đa số chọn giỏi
- Hạnh phúc hoặc đau khổ: đa số chọn hạnh phúc.
...

Đó là những lựa chọn không chỉ từ cảm tính hoặc lý tính mà còn từ vô thức cộng đồng sẵn có. Một mẫu thức mà trong đó con người hướng đến những gì có vẻ 'tốt/đẹp/ngon/hay/sướng...'. Tóm lại những lựa chọn đó là những lựa chọn hướng tới tích cực hoặc có dấu hiệu ổn hoặc hơn cả ổn.

Đợt nọ, tôi có đọc bài báo về thảm họa âm nhạc của V-Pop. Người ta chê bai nhiều. Cũng có người ý kiến rằng: có âm nhạc hàn lâm thì phải có âm nhạc rẻ tiền (nếu người ta cho rằng các sản phẩm âm nhạc dễ dãi của giới trẻ bây giờ là rẻ tiền), như thế mới là biện chứng(!) Kiểu như có ngày thì phải có đêm, có thiện thì phải có ác.

Xem ra thì người bình kiểu như vậy cũng có lý. Nhưng vô lý ở chỗ: nếu cho anh ta lựa chọn những thứ như trên thì anh ta rất có thể cũng lại chọn giỏi-giàu-hạnh phúc-thiện-sướng... mà thôi. Có thứ tốt hơn thì tội tình gì lại chọn món kém hơn. Hoặc quá lắm chọn lựa cả hai vì ... tham. (như ví dụ thấy 2 tờ bạc rơi thì bạn nhặt tờ nào: 500.000 và 10.000).

Lựa chọn luôn là điều khó khăn. Nhưng tinh thần bản lĩnh là người bạn đồng hành đáng giá nhất của bất kỳ lựa chọn nào. Và đối với tôi, tin là sinh quyển thiết yếu của lựa chọn.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Notes of... (2)

"Trăm năm trong cõi người ta...
...
Mua vui cũng được một vài
sát na"
Tượng Đại thi hào Nguyễn Du

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

William Faulkner

Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người
(Diễn từ nhận giải Nobel)
Nhà văn Mỹ - William Faulkner
Tôi cảm nhận rằng giải thưởng này không phải trao cho tôi với tư cách một con người mà là cho công trình của tôi - công trình cả một cuộc đời tạo tác trong nỗi thống khổ và nhọc nhằn của tinh thần con người, không phải vì danh và nhất là không phải vì lợi mà là để sáng tạo ra từ những chất liệu của tinh thần con người một cái gì trước đây chưa từng có. Vì vậy, giải thưởng này chỉ thuộc về tôi trong kỳ vọng. Tìm cách cống hiến khoản tiền trích từ giải thưởng cho tương xứng với mục đích và ý nghĩa khởi nguyên của nó không phải là việc khó khăn. Nhưng tôi cũng muốn làm như vậy với sự hoan nghênh nhiệt liệt bằng cách sử dụng giây phút này như một chóp đỉnh để từ đó, tôi có thể được những chàng trai và những cô gái trẻ lắng nghe, những kẻ đã sẵn sàng hiến mình cho nỗi khắc khoải và sự lao tác tương tự, trong số họ chắc chắn có một người vào một ngày nào đó sẽ đứng ở đây, nơi tôi đang đứng.

Bi kịch ngày hôm nay của chúng ta là nỗi sợ hãi chung và phổ quát mà chúng ta đã chống đỡ lâu đến mức ngay cả giờ đây chúng ta vẫn có thể chịu đựng nó. Không còn những vấn đề của tinh thần nữa. Chỉ còn một câu hỏi: Bao giờ ta sẽ nổ tung đây? Vì lẽ đó, người cầm bút trẻ tuổi hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người trong cuộc xung đột với chính nó, điều duy nhất có thể tạo ra tác phẩm hay, bởi đấy chính là điều duy nhất đáng để viết, đáng để thống khổ và nhọc nhằn.

Chân dung nhà văn William Faulkner -
tranh chì của Darrell Berry
Hắn phải học những vấn đề này lần nữa. Hắn phải tự giáo huấn rằng, điều hèn kém nhất trong tất cả mọi điều là sợ hãi, và tự giáo huấn rằng, hãy quên điều đó đi vĩnh viễn, đừng dành khoảng trống này trong văn phẩm của hắn cho bất cứ cái gì khác ngoài những chân lý cổ sơ, những sự thật của trái tim, những sự thật phổ quát xưa cũ mà nếu thiếu vắng chúng, câu chuyện nào cũng sẽ phù du và đáng bị kết án - đó là tình yêu, danh dự, xót thương, kiêu hãnh, trắc ẩn và hy sinh. Hắn sẽ phải lao tác dưới một lời nguyền rủa cho đến khi nào hắn làm được như thế. Hắn sẽ không viết về tình yêu mà chỉ viết về dục vọng, về những thất bại mà trong đó chẳng kẻ nào mất mát điều gì có giá trị, về những chiến thắng không có hy vọng và tệ hại hơn hết không có cả tình thương và lòng trắc ẩn. Những nỗi phiền muộn của hắn không khắc sâu trên những lóng xương nhân loại, cũng không để lại một vết sẹo nào. Hắn không viết về trái tim mà chỉ viết về các tuyến nội tiết.

Khi nào chưa học lại được những điều đó, hắn còn viết như thể hắn đang đứng giữa những con người mà nhìn ngắm sự lụi tàn của họ. Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người. Quả là dễ dàng khi nói rằng con người bất tử chỉ vì nó sẽ nhẫn nại; rằng khi tiếng chuông cuối cùng của ngày tận thế vang rền và tắt lịm từ mỏm đá cuối cùng tầm thường cheo leo khô cằn trong buổi hoàng hôn cuối cùng đỏ rực và chết chóc; rằng ngay cả khi ấy nữa vẫn còn một âm thanh: đó là tiếng nói yếu ớt không mệt mỏi của con người đang tiếp tục trò chuyện. Tôi khước từ chấp nhận điều này. Tôi tin tưởng rằng, con người sẽ chiến thắng. Nó bất tử không phải vì giữa muôn loài nó có một tiếng nói không mệt mỏi, mà là vì nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hy sinh và nhẫn nại. Bổn phận của nhà thơ và nhà văn là viết về những điều ấy. Đó là đặc quyền của hắn để giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn mình, bằng cách nhắc nhở con người về can đảm, danh dự, hy sinh, những gì đã từng là vinh quan trong quá khứ của họ. Tiếng nói của nhà thơ cần phải không chỉ là di tích của con người, mà còn có thể là những điểm tựa, những cột trụ giúp con người chịu đựng và chiế thắng.


Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Rabindranath Tagore

Tôn giáo của nhà thơ
"Chân lý là cái đơn nhất và thống nhất chứ không phải là một mảnh vụn được tách rời khỏi sự hỗn độn" - Rabindranath Tagore
Nhà thơ Rabindranath Tagore
Nhà thơ gợi ý rằng chân lý tự thể hiện trong cái đẹp… Cái đẹp không phải là một sự bịa đặt tùy tiện, nó có cái ý nghĩa muôn thuở của hiện thực.

Nhưng sự kiện tạo ra sự suy sụp và nỗi buồn chỉ là một lướp sương mù, và khi cái đẹp chọc thủng được ở một vài chỗ nào đó của màn sương ấy, chúng ta hiểu rằng cái có thật là tình yêu chứ không phải là hận thù và chân lý là cái đơn nhất và thống nhất chứ không phải là một mảnh vụn được tách rời khỏi sự hỗn độn. Chúng ta cảm thụ rằng sáng tạo là sự hài hòa vĩnh hằng lý tưởng vô cùng của sự hoàn thiện và tính liên tục vô tận của quá trình thực hiện nó, rằng bao giờ chưa có sự cách ly tuyệt đối giữa lý tưởng với sức cảm ngại đối đầu lại sự thành đạt nó, thì chúng ta không biết sợ đau khổ và sự chết chóc.

Đó là tôn giáo của nhà thơ.

Trong một tôn giáo với những tín điều võ đoán, tất cả các vấn đề được giải quyết một cách dứt khoát, tất cả những nỗi hoài nghi đều được trấn an, còn tôn giáo của nhà thơ là chất lỏng giống như bầu khí quyển bao bọc quả địa cầu trong đó ánh sáng và bóng tối chơi trò cút bắt, trong đó giống như chàng chăn cừu trẻ tuổi thổi sáo giữa những đàn cừu có tên là những áng mây. Tôn giáo của nhà thơ không dẫn dắt chúng ta đến một kết luận sau cùng, chung quyết nào: tuy nhiên, nó phát hiện giùm chúng ta những vùng ánh sáng vô tận vì nó không bị những bức tường bao bọc, tạo ra biên giới. Nó nhìn hậu quả của điều ác, nó chấp nhận sự mệt mỏi, những cơn sốt, những sự chao đảo dao động của cõi nhân gian trong đó mỗi người đều hoang phí cả cuộc đời mình để lắng nghe tiếng rên siết kêu than của người khác, nó nhắc nhở chúng ta rằng bất chấp tất cả mọi thứ, con chim họa mi vẫn cứ hót.



Claude Simon

Diễn từ nhận giải Nobel (trích)

Nhà văn Pháp Claude Simon
Thưa quý bà, quý ông
Cảm xúc của một người được Viện Hàn lâm Thụy Điển tôn vinh thể hiện trọn vẹn trong bức thư mà một bạn đồng viện Nobelo, Tiến sĩ André Lwoff, có nhã ý gửi cho tôi:

“Nghiên cứu là một trò chơi hoặc một ván bạc”. “Thắng hay thua chẳng có gì quan trọng, ít ra trên lí thuyết là như vậy. Tuy nhiên các nhà khoa học (và tôi xin nói thêm, các nhà văn) đều giống trẻ nít về một mặt nào đó. Giống lũ trẻ, họ thích thắng và cũng giống lũ trẻ, họ thích giải thưởng”. Bởi vậy, ông André viết thêm: “Tự trong đáy lòng, nhà khoa học nào (tôi lại xin nói thêm, nhà văn nào) cũng khao khát được công nhận”.

Phải thú nhận rằng tôi không quá kiêu căng hay thậm chí ngu ngốc đến mức không biết rằng bất cứ lựa chọn nào trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng đều gây tranh cãi, và trong chừng mực nào đó, võ đoán; và tôi là người đầu tiên coi nhiều nhà văn khác tôi rất kính trọng ở Pháp và các nước khác, là những người hoàn toàn xứng đáng nhận giải thưởng này như mình.

Hãy đặt sang một bên những lời phàn nàn rằng tôi là một nhà văn “khó hiểu”, “buồn chán”, “không thể đọc nổi” hay “bát nháo”, hãy nhớ lại rằng những chê trách tương tự luôn được gán cho bất cứ nghệ sĩ nào dám lật đổ dù chỉ chút ít những thói quen cố định và trật tự sẵn có, thay vào đó, chúng ta hãy tự chất vấn về cung cách mà con cháu của những người đó đã có thời chẳng thấy gì trong các bức tranh ấn tượng chủ nghĩa ngoài những hình thù méo mó (nghĩa là không thể luận được) và ngày nay thì xếp hàng dài bên ngoài các cuộc triển lãm và bảo tàng để chiêm ngưỡng cũng chính những họa sĩ bôi bác đó.

Cũng như vậy, chúng ta hãy gạt sang một bên những ám chỉ rằng các vị đã bầu chọn cho tôi theo ý đồ của các điệp viên thuộc một cơ quan cảnh sát chính trị nào đó, trà trộn giữ các vị đang ngồi đây, tuy nhiên cũng nên lưu ý một điều lạ lùng là thậm chí ngày nay đối với một nhóm người nhất định, Liên bang Xô viết vẫn còn là biểu tượng cho một thế lực thù địch đáng sợ uy hiếp trật tự xã hội, thế lực mà tôi một nhà văn bình thường, có vinh hạnh được liên kết.

“Có phải họ trao giải Nobel cho Claude Simon để khẳng định tin đồn rằng cuối cùng tiểu thuyết đã chết?” một nhà phê bình hỏi. Cái mà ông ta dường như không để ý là nếu với chữ “tiểu thuyết” ông ta muốn nói đến hình mẫu văn học được thiết lập ở thế kỷ 19, thì quả thực nó đã chết rồi, bất kể đã có bao nhiêu sách in ra về những cuộc phiêu lưu dễ thương hay rùng rợn, với kết thúc có hậu hay tuyệt vọng, mà các nhà ga và hiệu sách vẫn đang bán và mua và sẽ còn bán rất lâu nữa, dưới những tựa đề loan báo chân lí mới được tiết lộ như Phận người, Hy vọng hay Những con đường tự do.

Bây giờ tôi đã là một ông già. Giống như cuộc đời của vô số người sống ở châu Âu già cỗi này, phần đời ban đầu của tôi bị xáo trộn không ít. Tôi đã chứng kiến một cuộc cách mạng. Tôi đã ra trận trong những tình huống đặc biệt chết chóc (trung đoàn của tôi là một trong những đơn vị bị bộ tổng tham mưu lạnh lùng hi sinh từ trước, đến nỗi mà một tuần sau hầu như chẳng còn ai sống sót). Tôi bị bắt làm tù binh. Tôi biết thế nào là đói khát. Đã từng bị dồn đến mức kiệt lực vì lao động chân tay. Đã trốn. Đã từng ốm nặng, nhiều lần tưởng chết tự nhiên hoặc suýt bị giết, tôi đã gánh chung vai với mọi loại người; trong mọi hoàn cảnh, từ tu sĩ đến kẻ đốt đền, từ nhà tư sản hòa bình đến phần tử vô chính phủ, triết gia và người mù chữ. Tôi đã chia sẻ miếng bánh với những kẻ cơ nhỡ, nói tóm lại, tôi đã ở giữa nhân quần… với tất cả tuy nhiên vẫn chẳng tìm thấy ý nghĩa nào trong mọi chuyện đó, có thể trừ một ý nghĩa gắn liền với cuộc đời mà Barthe, phỏng theo Shakespeare, đã nói rằng “nếu thế giới có một ý nghĩa, thì đó là nó chẳng có ý nghĩa gì cả” trừ việc nó tồn tại.

Thỉnh thoảng người ta hay nói, duy có điều là quá trôi chảy và ngoài chỗ cần nói, về chức năng và nhiệm vụ của nhà văn. Vài năm trước đây, một số người không phải không mị dân đã sau đây một thành ngữ tự nó đã mâu thuẫn, thậm chí đi đến chỗ tuyên bố rằng “một cuốn sách chẳng đáng gì so với cái chết của một em bé ở Biafra”. Nhưng tại sao một cái chết như thế khác, với cái chết của một con khỉ con, lại không thể chịu đựng nổi? Hiển nhiên bởi vì đứa trẻ là một con người, tức là được phú cho một trí tuệ, một ý thức (tuy ở dạng phôi thai) và nếu sống sót, một ngày kia nó sẽ có khả năng tư duy và nói lên nỗi khổ của mình, sẽ đọc được những điều viết về nỗi khổ của người khác, và đến lượt mình sẽ biết xúc động và nếu may, sẽ viết về điều đó.

Trước khi thế kỷ ánh sáng kết thúc, trước khi huyền thoại về chủ nghĩa hiện thực hình thành, Novalis đã nêu lên với một sự sáng suốt đáng kinh ngạc nghịch lí này: “Ngôn ngữ cũng giống như các công thức toán học, cả hai đều chứa đựng những thế giới riêng những thế giới tự thân. Hoạt động của chúng là độc nhất và nội tại, chúng không thể hiểu gì ngoài bản chất kì diệu của mình, và chính điều đó làm cho ngôn ngữ và toán học giàu sức biểu hiện đến thế, khiến bên trong hai thế giới đó, tác động lẫn nhau của sự vật được phản ánh một cách hết sức đặc biệt”.

Chính trong lúc tìm kiếm tác động qua lại này mà có lẽ người ta có thể hình dung hành động viết văn, hành động tuy khiêm tốn nhưng góp phần làm thay đổi thế giới mỗi khi nó làm thay đổi cách thức sau đây ngôn ngữ của con người, dù ở mức độ nhỏ nhất. Không còn nghi ngờ gì nữa, con đường đó sẽ khác hẳn với mọi người viết tiểu thuyết khởi đầu bằng “phần đầu” và kết thúc bằng “đoạn kết”. Con đường kia, dễ khiến một nhà thám hiểm ở một xứ sở xa lạ mất nhiều công sức mới tìm ra (anh ta phải quên mình đi, trở đi trờ lại những lối mòn, lạc đường bởi sự giống nhau của các địa điểm, những khía cạnh khác nhau của cùng một địa điểm) sẽ thường xuyên qua những giao điểm đã đi nhiều lần, ở cuối cuộc điều tra xâm nhập những hình ảnh và cảm xúc “tức thời” chẳng cái nào gần hơn hay xa hơn cái kia (ngôn từ có một sức mạnh kì diệu là làm xích lại gần và chồng lên nhau những đối tượng lẽ ra vẫn nằm rải rác trong thời gian đo đếm được),  cuộc hành trình đó rất có thể kết thúc với việc anh ta trở lại điểm xuất phát, chỉ có điều là giàu có hơn nhờ biết được vài phương hướng, bắc vài cây cầu, và nếu có vài nét đặc thù xuyên thấu một cách bướng bỉnh, và đừng phô phang yêu sách đòi nói những chuyện tầm phào, anh ta thậm chí có thể đạt tới cái lẽ thường để mọi người dù ít hay nhiều có thể nhận ra anh ta trong đó.


Cao Hành Kiện (Gāo Xíngjiàn)

Thủ pháp hiện đại và tính dân tộc trong tiểu thuyết
"Nếu một tác phẩm trở thành kinh điển thì nó cũng nên là hòn đá lót đường cho hậu thế chứ đừng là gánh nặng cho tương lai" - Cao Hành Kiện
Nhà văn Cao Hành Kiện -
Nobel văn chương 2000
Cái thường được gọi là hình thức dân tộc trong văn học Trung Quốc nghĩa là gì? Trong thơ, ít nhiều mọi chuyện cũng rõ ràng: chủ yếu đó là những khuôn mẫu âm điệu và niêm luật thơ cổ điển, hình thức ca dao. Hình thức dân tộc trong thơ cổ điển liên quan đến hai truyền thống thi các khác nhau nói trên. Trong văn xuôi, nói cho đúng ta chỉ có tiểu thuyết chương hồi mà rất ít nhà văn ngày nay còn sử dụng. Hình thức văn xuôi phần lớn các nhà văn Trung Quốc sử dụng từ cuộc vận động Ngũ Tứ (1919) chủ yếu xuất phát từ truyền thống văn xuôi phương Tây thế kỷ XVIII và XIX.

Tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc vẫn còn sử dụng thủ pháp truyền thống nào từ khi từ bỏ lối viết chương hồi? Thủ pháp được nói nhiều nhất trong văn xuôi cổ điển Trung Quốc là phương pháp miêu tả trực tiếp, một thuật ngữ vay mượn của hội họa: phác họa các đường nét chính với những nét thoáng, sau đó thêm vào những nét quyết định tạo thần thái cho tác phẩm. Áp dụng vào văn  xuôi, phương pháp này chắc chắn rất độc đáo. Nhà văn ngắt quãng dòng tự sự khi đến cao trào, làm tăng hứng thú của độc giả, bắt độc giả chờ đợi diễn biến tiếp theo ở chương sau.

Một số tiểu thuyết gia sử dụng thành công kỹ thuật này. Số khác sử dụng nó đồng thời tiếp nhận những thủ pháp khác học được của truyền thống hiện thực phương Tây. Việc tiếp nhận kỹ thuật phương Tây không nhất thiết làm hại đến tính dân tộc. Câu hỏi ở đây là: những nhà văn từ thời Ngũ Tứ đã thôi sử dụng phương pháp miêu tả trực tiếp với tư cách là thủ pháp biểu hiện chủ yếu (số này rất đông), từ bỏ truyền thống, họ có làm hỏng hay biến dạng tính dân tộc trong tác phẩm hay không? Câu trả lời hiển nhiên là “không”.

Vậy là tính dân tộc trong văn học là gì? Turgenev nói rất đúng rằng “dân tộc” của ông chính là tiếng Nga. Nhà văn sáng tạo thông qua ngôn ngữ; tính dân tộc trong tác phẩm của ông toát ra trước hết và chủ yếu từ khả năng khai thác tiềm năng nghệ thuật của ngôn ngữ đó.

Trung Quốc là một đất nước có nhiều dân tộc, ở đó Hán ngữ là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất. Chúng ta có thể nói rằng bất cứ tác phẩm văn chương nào được viết bằng Hán ngữ, hoặc ngôn ngữ của bất kỳ dân tộc nào, đều phản ánh tính dân tộc của những mức độ khác nhau.

Ngôn ngữ là phương tiện để chúng ta tư duy và truyền đạt tư tưởng. Một tác phẩm viết bằng một ngôn ngữ dân tộc tất nhiên sẽ phản ánh truyền thống văn hóa, lối sống và cách suy nghĩ của dân tộc đó. Bất kể một nhà văn Trung Quốc nào cũng có thể vay mượn kỹ thuật nước ngoài, miễn là anh viết bằng một thứ tiếng Trung Quốc thuần thục, tiêu biểu thì tác phẩm ấy nhất định phải có phong vị dân tộc. Nước Italia mà Gorky miêu tả sẽ vẫn là nước Italia trong văn học Nga. Cũng như vậy, đối với nước Mỹ nhìn qua góc độ một nhà văn nhập cư Trung Quốc. Những mô tả của anh ta khác căn bản với mô tả của các nhà văn Mỹ.

Khi nhà văn miêu tả thực hiện dân tộc bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, nếu tác phẩm của anh ta càng sinh động thì tính dân tộc càng cao. Thủ pháp sử dụng chỉ là thứ yếu.

Nữ thần, tập thơ của Quách Mạt Nhược, hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Walt Whitman. Tuy nhiên không ai nghĩ đây là thơ ngoại quốc. Phong cách thơ tự do của Nghĩa Thạch không chỉ bắt nguồn từ trường phái ấn tượng và tượng trưng, nó còn phản ánh ý thức nỗ lực của nhà thơ nhằm phá vỡ khuôn khổ thơ ca dân gian. Lỗ Tấn còn cực đoan hơn khi chủ trương “nguyên lý hiệu quả”. Trong truyện và thơ của ông có sự pha trộn giữa các thủ pháp hiện thực phê phán lãng mạn, ấn tượng, tượng trưng và siêu thực. Trong Nhật ký người điên, Lỗ Tấn đã đi trước Kafka: ông vay mượn của Gogol thủ pháp thô kệch. Tác phẩm thơ văn xuôi, Khách qua đường của ông chẳng khác mấy kịch của Pirandello, và được viết nhiều năm trước khi có các vở kịch của Ionesco và Beckett. Ông sử dụng thủ pháp tượng trưng trong Thầy lang Báo thù, thủ pháp ấn tượng trong Chuyện người tốt, Hành KhấtMưa thu, thủ pháp siêu thực (mà lúc đó mới chỉ bắt đầu hiện thực ở phương Tây) trong Bia mộ Dao động. Hơn nữa, A.Q chính truyện được viết theo một lối chưa từng có trong văn xuôi cổ điển Trung Quốc.

Các nhà tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc xuất chúng nhất, Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Đinh Linh đều phối hợp các kỹ thuật phương Tây để tạo ra phong cách riêng của họ. Độ sâu rộng của hiện thực, tính cách của các tầng lớp xã hội được miêu tả trong các tác phẩm của họ vượt xa những nhà văn khư khư giữ lấy cách viết truyền thống.
Tranh mực tàu của Cao Hành Kiện
Khi Lỗ Tấn viết A.Q chính truyện có lẽ ông không chủ tâm tìm kiếm một hình thức dân tộc cho văn xuôi. Tuy nhiên giọng văn điềm tĩnh riêng có ở ông, trong đó pha trộn cảm tình với châm biếm, đã cho phép ông không những thể hiện cuộc đời cơ cực và tâm lý của một người nông dân mà còn phản ánh được đời sống và tâm lý xã hội nửa thực dân phong kiến khi ấy. Khi đọc truyện ngắn này, nhà văn Romain Rolland, một người tắm mình trong văn hóa Latin và trưởng thành trong một xã hội hoàn toàn khác với Lỗ Tấn, đã không kìm nổi những giọt nước mắt. Tiểu thuyết Gia tộc của Ba Kim, với nội dung tập trung vào số phận và khát vọng của thanh niên Trung Quốc trước và sau phong trào Ngũ Tứ, cũng gây được ấn tượng cho nhiều độc giả phương Tây. Điều đó chỉ ra rằng nếu một nhà văn miêu tả chân thực của đời sống nhân dân, độc giả ở các nước khác cũng sẽ xúc động và hiểu như độc giả trong nước.

Thủ pháp nghệ thuật vượt qua mọi biên giới quốc gia. Nó không phải là độc quyền của một dân tộc nào. Tinh thần dân tộc có một lịch sử lâu dài, mạnh mẽ và bền bỉ hơn tuổi thọ tương đối ngắn của một thủ pháp. Nó là tổng hòa của truyền thống văn hóa dân tộc, tập quán xã hội, khuôn mẫu tâm lý, thói quen thẩm mỹ và phong cách tư duy. Việc sử dụng và tiếp thu các thủ pháp mới không bao giờ là trở ngại cho sự phát triển lành mạnh của văn học dân tộc.

Việc tìm kiếm các thủ pháp nghệ thuật không phải lúc nào cũng đem lại kết quả. Phần lớn các nghệ sĩ lớn đều trải qua những thất bại cay đắng. Họ không nghĩ rằng tất cả các tác phẩm của họ sẽ trở thành kinh điển và sống mãi với hậu thế. Thực tế có những tác phẩm lớn mà khi ra đời không được xã hội công nhận. Tuy nhiên lịch sử mới là người cầm cân. Thậm chí nếu một tác phẩm trở thành kinh điển thì nó cũng nên là hòn đá lót đường cho hậu thế chứ đừng là gánh nặng cho tương lai. Đó là một thái độ nên có khi bàn về truyền thống và cách tân.

Xem thêm về Cao Hành Kiện:

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=3E62251C4846FBD72A73E99B5BB14A39?action=viewArtwork&artworkId=7019

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=3E62251C4846FBD72A73E99B5BB14A39?action=viewArtwork&artworkId=6964

http://evan.vnexpress.net/News/chan-dung/2005/05/3B9ACFE6/

http://evan.vnexpress.net/Search/?p=1&r=5&a=3&s=Cao%20H%26%23224%3Bnh%20Ki%26%237879%3Bn