Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

Top bookstores

9 Of The Most Amazing Bookstores In The World

It's a difficult time for bookstores. Online booksellers offer seductively low prices and the convenience of ordering from home. eBooks are poised to change the business of publishing as we know it, allowing readers to bypass printed material altogether. There are news stories almost every day telling us about another independent bookstore that has shut down, a casualty of the changing book business.

However, we hope that there will always be a place for physical bookstores. Below, we have gathered some of the most amazing bookstores in the world -- the places that would make any reader shut their laptop, put aside their eReader, and go out to buy a book. From New York to Portugal to China, we've picked the most beautiful, impressive, and inspiring. Let us know what you think, and if we missed any incredible bookstores, in the comments section below.

For more amazing book places, check out our slideshows on the most amazing libraries in the world and the best independent bookstores.

  • Selexyz Bookstore in Maastricht, Holland

Named the best bookstore in the world by the Guardian in 2008 , this branch of the Selexyz chain brings book selling to a heavenly new level. The store is located inside of a refurbished Dominican church. The original structure dates to 1294, and since its creation has served as a parish, a warehouse, an archive, and a bike storage lot.

  • Livraria Lello in Porto, Portugal

Constructed in 1881, Livraria Lello features a luxuriant interior decorated with stained glass and beautifully carved wood. A curving red staircase connects the two levels of the space.

  • El Ateneo in Buenos Aires, Argentina

This stunning bookstore was once a theater named The Grand Splendid. In 1929, the Grand Splendid was first location in the world to show movies with sound. Now, book lovers can enjoy a coffee on the elegant cafe located on the old stage while they take a break from browsing the store's large selection.

  • Poplar Kid’s Republic, Beijing

This bright and playful space houses one of China's first and largest children's bookstore, stocking over 3,000 titles in many languages. The store's imaginative architecture creates a fantastic space for parents and children alike.

  • Cafebreria El Péndulo in Mexico City, Mexico

At once bar, cafe and bookstore, the Cafebreria El Pendulo offers a well air conditioned abode for reading and lounging. Living plants decorate the interior.

  • Shakespeare and Co, Paris

This legendary English language bookstore has served as a haunt for literary greats such as Hemmingway and Fitzgerald. The store is generously stocked with both used and new books, and features an eclectic collection of not for sale books that can be enjoyed in the reading room upstairs. Often flooded with tourists, the bookstore still serves as go to spot for readers and writers alike.

  • The Strand in New York City, USA

The Strand boasts that it houses "eighteen miles of books". Patrons can wander the vast and only slightly organized selection, shopping for used and discounted books alike.

  • Goulds Book Arcade in Sydney, Australia

Bob Gould's has been a bookseller since 1967 and at its Newtown shop since 1988. Their website boasts: "There are around 300,000 books and records (vinyl) etc. in the public areas of the shop, around 650,000 books in storage, and around 70,000 books on line".

  • Hay-on-Wye in Wales

Hay-on-Wye is known through out the world as 'The Town of Books.' There are more then thirty bookstores in the town, and it has come to be known as a center for second hand and antiquarian books.

(The Huffington Post )

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

John Updike


Cây bút về đời sống Mỹ hiện đại

Người hầu bàn hỏi John Updike cần thứ thức uống nào? Với bao nhiêu nhà văn lớn của nước Mỹ trước đây và bây giờ, câu trả lời – vào lúc 4 giờ chiều – thường giống như đặt bữa tiệc Giáng sinh của hãng IBM cho quầy rượu. Nhưng John Updike chọn dùng trà. Cùng lúc đó, từ một chiếc bàn bên cạnh, người ta hỏi nhau: “Có phải John Updike đấy không nhỉ?” Sự trùng hợp này làm người ta nghĩ đến sự nổi tiếng và sự tàn tạ, những hình phạt của thành tựu văn học ở Mỹ. Các nhà phê bình, đặc biệt là người Anh, hay viết về những áp lực đặc biệt đối với các tác giả Mỹ: một sản phẩm của cường độ chung về văn hóa và sự khát khao của một đất nước về một nền văn hóa có bản sắc. Người ta có thể thống kê về nạn nghiện rượu, tự tử, suy sụp thần kinh, những bài diễn thuyết điên cuồng, về những vụ tranh cử…
Tại bữa trà này, một nhà phê bình văn học, Mark Lawson hỏi Updike: “Xem ra anh còn tỉnh để có thể tránh đi được cái bẫy đó”.
“Phải rồi”, Updike đáp, chặc lưỡi, “Tôi vẫn còn sống nhăn răng”.
“Và mắn đẻ nữa chứ”. Lawson tiếp. Đấy là cách nói nhún. Knoff, nhà xuất bản của Updike, vừa rồi đã phải thu nhỏ lại khổ chữ của trang giới thiệu tác phẩm cùng một tác giả trên sách của ông để có thêm chỗ cho tác phẩm mới. Đến nay không kể truyện viết cho thiếu nhi, tất cả là 36 cuốn gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, khảo luận và hồi ký. Cuốn thứ 37, Hồi ức về chính quyền Ford (một cái tên sách tư liệu ngụy trang cho cuốn tiểu thuyết thứ 15 của ông) xuất bản vào cuối tháng 3-1993.
Updike bình phẩm: “Quả thỏa đáng khi nói là tôi đã ý thức được về tình trạng ốm yếu của bao nhiêu nhà văn trước tôi. Về mặt lịch sử mà xét, rất hiếm những nhà văn không bị rệu rã từ tuổi 35. Do một số lý do. Trước hết, Mỹ là một xứ sở tôn vinh cái trẻ trung. Người ta có thể thấy rất rõ trong trường hợp Hemingway. Viết trước hết từ sức sống trẻ trung, về một thế giới ngây thơ vẫn mang những hạt sương mai. Nhưng đến lúc sương tan, thì cả tác giả lẫn độc giả đều có thể trở nên chua chát”.
Vẻ măt của Updike bao giờ cũng ánh lên sự nhanh nhạy, hóm hỉnh. Bởi thế, vào tuổi 60, nhà văn Mỹ này có cặp mắt vẫn còn ướt át. Độc giả của ông cũng thế: như thể để chứng minh rằng ngòi bút của ông không chịu tuân theo cái biểu đồ mà ông vừa nói – Updike đã nhận hai giải Pulitzer vào tuổi 50 và 59.
Hầu bàn mang trà tới. Như chơi vĩ cầm với dụng cụ dùng trà, ông tiếp tục: “Thế hệ ấy, hầu hết đối với nam giới họ uống quá nhiều. Đặc biệt là Faulkner, gây ấn tượng mạnh là Hemingway, còn Fitzgerald thì vô hồi kỳ trận..”. Khi nói, cũng giống như khi viết, một dấu ấn mang phong cách Updike là việc chọn và đặt vị trí của trạng từ và tính từ: một sự hòa trộn và chọn lọc sinh động và đầy nhịp điệu. “Bản thân tôi, tôi cho thật là vui khi tìm thấy cách kéo dài năng lực mình như Henry James đã làm. Từ 35 năm trước, tôi đã bắt đầu nghề nghiệp của mình giống như một nha sĩ hành nghề, có mặt nơi làm việc hàng ngày và đúng giờ giấc”.
Trong vòng 15 năm qua, ngày nào ông cũng viết ít nhất là 1.000 từ. Còn việc chọn thức uống cũng là có lý do của nó: sức khỏe của ông cần kiêng rượu vì bệnh suyễn và kiêng cà phê vì huyết áp cao. Như một hoán dụ, sở dĩ Updike cần phải uống trà vì như ông nói: “Hemingway đối với tôi là một nhà văn xuất sắc của Mỹ trong thế kỷ XX. Văn phong của ông là cái mà chúng ta mơ ước. Nhưng sai lầm của ông mà ta có thể rút ra là: sự cạn kiệt quá sớm, sự lạm dụng sức khỏe của mình, sự liều lĩnh trong cuộc sống cá nhân, và sự lo sợ viết về cái mà ta có thể gọi là đời thường. Ông đã tìm mọi cách để tránh những đề tài về cuộc sống hàng ngày của người dân Mỹ. Còn tôi thì lại bằng mọi cách lặn ngụp trong đó…”
Trên biểu đồ sự nghiệp của sự nghiệp John Updike, trước tiên người ta coi ông là một nhà thơ viết văn xuôi, tiếp đó là một nhà văn đi sâu vào tình dục, và gần đây nhất là một người ghi chép lịch sử hiện đại Mỹ.
Sinh năm 1932 tại Pennsylvania từ một gia đình gốc Hà Lan, cha ông là một giáo học, còn mẹ là một nhà văn hạng hai. John Updike là con một, còn Pennsylvania là một bang lúc đó mang tính chất thôn dã lỗi thời.
Hết phổ thông, Updike trở thành họa sĩ biếm họa, sau đó làm cho tờ New Yorker và viết hàng loạt truyện ngắn và tiếp đó cho ra đời tác phẩm Thỏ, chạy đi (Rabbit, run) (1960).
Tác phẩm này kể lại giai đoạn gieo neo về đời sống hôn nhân năm 1959 của Harry “Rabbit” Angstrom, một dân gốc Hà Lan lì xì ở Pennsylvania, là một người mà thời hoàng kim là ngôi sao bóng rổ tại một trường cao đẳng thời trẻ. Sau đó cứ 10 năm Updike lại trở lại với Rabbit: Rabbit trở lại (1971), Rabbit giàu có (1981) và Rabbit yên nghỉ (1990). Những truyện này chen nhau những cảnh ngộ của cuộc sống gia đình: lúc đi tắm, vợ Harry dìm chết đứa con gái trong những tình huống khả nghi, khả năng về một cô bồ đã đẻ cho ông ta một đứa con bất hợp pháp. Sự kiện và tâm trạng của người Mỹ trong 4 thập kỷ - các vị tổng thống, chiến tranh, những quan hệ tình dục, các thời thượng văn hóa. Tất cả cuốn lại với nhau như những dòng thời sự do một nhà thơ viết ra.
Vào giữa hai tập đầu, Updike đã tạo ra một sự nổi danh khác: một nhà văn lang thang về tình dục. Những cặp vợ chồng (1969) nói về quan hệ bộ tam, bộ tứ dưới thời Kennedy – và vì thế người ta mệnh danh ông là nhà văn “porno” về hôn nhân, dưới cách viết bóng bẩy. Chính vì thế, lời kết tội thực sự đối với Updike là giọng văn “chải chuốt đáng ngờ”. Trước tiên là do những câu văn đầy cá tính của ông ánh lên bằng những tính từ và những hình ảnh khiến chúng trở nên kiêu sa về hình thức hơn là hàm chứa về nội dung. Người ta cũng còn cho văn ông là quá trau chuốt.
John Updike, thường được ví như nhà văn De Sade về hôn nhân và nhà văn Carlyle về tình trạng suy thoái của Mỹ. Ông có một cảm quan đặc biệt thính nhạy. Mà quả tình, chứng khịt mũi của ông do bệnh suyễn hay cố tình làm cho chiếc mũi đẹp của ông cứ run rẩy khiến người ta cứ liên tưởng tới một cần ăng ten hay một chú thỏ. Với những chi tiết sinh động trong tác phẩm của ông, người ta có cái ấn tượng là đầu óc ông thường xuyên tiếp nhận các dữ kiện. Cái cảm giác về một nhà văn không bao giờ rời bỏ công việc của mình còn được nhấn mạnh bỏ cách trò chuyện của ông, cách ăn nói và miêu tả của ông.
Những hồi ức về chính quyền Ford là một tác phẩm thuộc giai đoạn sau và phóng túng của một tác giả lớn, cố tình kết hợp một chủ đề cũ với một nỗi ám ảnh cá nhân mơ hồ. Chủ đề thứ nhất là ngoại hình và những méo mó của một gia đình, chủ đề thứ hai là chính quyền của James Buchanan, một đảng viên lập lờ của đảng Dân chủ, là Tổng thống cuối cùng trước cuộc nội chiến Mỹ. Là một người sinh trưởng ở Pennsylvania, Updike đã luôn bị thu hút bởi vị tổng thống duy nhất xuất xứ từ bang này. Năm 1974, ông đã viết một vở kịch có tên là Buchanan đang chết.
Trong cuốn tiểu thuyết mới, nhân vật Alf Clayton, một học giả ở New Hampshire đang biên soạn (vào năm 1990) một tài liệu về những năm của chính quyền Ford – một con người làm phó tổng thống rồi tổng thống mà không hề được bầu vào các chức vụ đó. Tổng thống Ford thường được đi kèm với từ “pardon” (xin lỗi) mang tính chất một câu hỏi bởi vì ông ta chẳng hiểu gì mấy về vấn đề người ta đặt ra với ông. Updike nhận xét: “Tôi ngạc nhiên về việc mặc dầu chúng ta có tất cả 42 tổng thống, thì rất có thể ông ta là người đã bị bỏ quên. Khi tôi nói với người ta về cái tít của cuốn tiểu thuyết, họ thường mỉm cười, tưởng là tôi nhắc đến một câu nói đùa cũ…”
Khi biên soạn tài liệu này, Clayton lại thường bị ám ảnh bởi nội dung tư liệu về tiểu sử của Buchanna – cả hai đều là hai tổng thống bị quên lãng từng cai trị đất nước Mỹ vào những thời kỳ khủng hoảng. Những ký ức sâu đậm cảu Clayton thời chính quyền Ford còn là chuyện của ông ta, năm 1974, muốn từ bỏ vợ con để sống với một cô bồ. Điệu nghịch lý là mặc dầu Ford là một kẻ vụng về bị hất ra khỏi chiếc giường, nhưng thời cầm quyền của ông lại trùng hợp với thời đại đỉnh cao của người Mỹ đua nhau chui vào giường ngủ. Đây là trào lưu của thập kỷ 70, thời đại tiền-SIDA, và các vấn đề hạn chế sinh đẻ và bệnh hoa liễu – ít nhất là trong các tầng lớp trẻ - chưa nảy sinh. Theo Updike, những năm giữa thập kỷ này hé ra một cánh cửa sổ cho một cơ hội tình dục giữa việc tìm ra thuốc tránh thai và sự phát sinh bệnh SIDA.
Người ta có thể tự hỏi: Nếu trong một cuốn truyện về thời này, liệu Updike có cảm thấy buộc phải giới hạn trong sinh hoạt tình dục an toàn không? Updike liền vặn lại: Có người nào trong gia đình Rabbit dùng bao tránh thai không nhỉ? Mà thực, việc đó đã được nói đến trong tập truyện cuối cùng của bộ tứ tiểu thuyết về Rabbit. Và Updike kiêu hãnh nói: “Đấy anh thấy không, cái tình dục an toàn hiện đại có trong truyện của tôi rồi đấy!”.
Về bộ tiểu thuyết saga Rabbit, độc giả của ông có phần miễn cưỡng chấp nhận cái chết của nhân vật. Họ hy vọng rằng ông sẽ cho ra tiếp tập năm vào bước ngoặt của thế kỷ sắp kết thúc vì giống như nhân vật huyền thoại Elvis, đã không thực sự chết, và có thể cung cấp cho những hồi ức về chính quyền Clinton hiện nay. Tác giả có vẻ suy nghĩ và nói hình như quả là ông đã viết bộ sách này khá hơn những tác phẩm khác và cũng có thể do cách để viết cuốn thứ năm: một tác phẩm về đám tang của gia đình Angstrom, hay vấn đề người con gái có phải là con của Harry hay không đã bỏ ngỏ. Lập luận của ông là ông sẽ 67 tuổi vào kỳ hạn xuất bản tới của một cuốn sách về Rabbit và có rất ít tiền lệ lịch sử trong văn học Mỹ khi một tác phẩm hàng đầu lại được in ra vào cái tuổi của ông. Nhưng các tác phẩm thứ 38, 39 và 40 của Updike đang chuẩn bị in – một tuyển tập thơ, một loạt truyện ngắn và một tiểu thuyết lấy bối cảnh Braxin. Ông đã thách thức cái mẫu của đời sống sáng tác trong văn học Mỹ thành công đến mức mà chừng nào ông còn gắn với tách trà thì chừng đó khả năng sinh đẻ giống như loài thỏ của ông vẫn có thể đảm bảo cho việc tái tạo ra một thiên tiểu thuyết nữa về Rabbit.
Có những nhà văn như thế - Hà Vinh-Vương Trí Nhàn – Nhà xuất bản Hội nhà văn

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Notes of... (3)

Bản lĩnh của lựa chọn.

Hôm nay nghe GS giảng, lại thấm thía nhiều điều.
Niềm tin theo ý tôi cũng chẳng khác chi không khí, nó có đó, hiện diện đó, mà ta thấy được đâu. Ai cũng cần không khí để thở và mấy ai dám dối lòng rằng không tin gì cả mà vẫn sống. Ít nhất, như Tào Tháo siêu đa nghi cũng phải tin vào chính tuyên ngôn của mình: "Thà ta phụ người còn hơn người phụ ta". Bác Nguyễn Huy Thiệp nói cũng chí lí lắm thay: "cả tin để sống".
Ờ, ít nhất cũng phải tin là: mình đang sống chớ.

Trở lại chuyện GS giảng. GS nói những người đầu tiên đi vào miền Nam Bộ là những kẻ bản lĩnh bậc nhất xứ ta. Có lẽ vậy. Điều đáng quý là bản lĩnh lựa chọn và hành động. Trong cuộc sống, lựa chọn luôn xảy ra, ngay cả khi không chọn gì cũng là một lựa chọn. Điều này rõ quá, không phải trò chơi chữ. Bản lĩnh chính là vượt qua thói đa nghi, lý tính cẩn trọng của bản thân hoặc hơn nữa là vượt qua sự lựa chọn cũng như vô thức của đám đông. Bản lĩnh lựa chọn đã hàm chứa khả năng vượt qua chính mình và tiềm ẩn năng lực vượt khỏi đám đông. Chính bản lĩnh lựa chọn đã khiến con người có ngày hôm nay: Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền/Trần Hưng Đạo, "trái đất quay quanh mặt trời" của Galilei Galileo... và biết bao lựa chọn đầy dũng khí khác.

Nếu hỏi người ta chọn gì
- Giàu hoặc nghèo: đa số chọn giàu
- Giỏi hoặc dở: đa số chọn giỏi
- Hạnh phúc hoặc đau khổ: đa số chọn hạnh phúc.
...

Đó là những lựa chọn không chỉ từ cảm tính hoặc lý tính mà còn từ vô thức cộng đồng sẵn có. Một mẫu thức mà trong đó con người hướng đến những gì có vẻ 'tốt/đẹp/ngon/hay/sướng...'. Tóm lại những lựa chọn đó là những lựa chọn hướng tới tích cực hoặc có dấu hiệu ổn hoặc hơn cả ổn.

Đợt nọ, tôi có đọc bài báo về thảm họa âm nhạc của V-Pop. Người ta chê bai nhiều. Cũng có người ý kiến rằng: có âm nhạc hàn lâm thì phải có âm nhạc rẻ tiền (nếu người ta cho rằng các sản phẩm âm nhạc dễ dãi của giới trẻ bây giờ là rẻ tiền), như thế mới là biện chứng(!) Kiểu như có ngày thì phải có đêm, có thiện thì phải có ác.

Xem ra thì người bình kiểu như vậy cũng có lý. Nhưng vô lý ở chỗ: nếu cho anh ta lựa chọn những thứ như trên thì anh ta rất có thể cũng lại chọn giỏi-giàu-hạnh phúc-thiện-sướng... mà thôi. Có thứ tốt hơn thì tội tình gì lại chọn món kém hơn. Hoặc quá lắm chọn lựa cả hai vì ... tham. (như ví dụ thấy 2 tờ bạc rơi thì bạn nhặt tờ nào: 500.000 và 10.000).

Lựa chọn luôn là điều khó khăn. Nhưng tinh thần bản lĩnh là người bạn đồng hành đáng giá nhất của bất kỳ lựa chọn nào. Và đối với tôi, tin là sinh quyển thiết yếu của lựa chọn.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Notes of... (2)

"Trăm năm trong cõi người ta...
...
Mua vui cũng được một vài
sát na"
Tượng Đại thi hào Nguyễn Du

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

William Faulkner

Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người
(Diễn từ nhận giải Nobel)
Nhà văn Mỹ - William Faulkner
Tôi cảm nhận rằng giải thưởng này không phải trao cho tôi với tư cách một con người mà là cho công trình của tôi - công trình cả một cuộc đời tạo tác trong nỗi thống khổ và nhọc nhằn của tinh thần con người, không phải vì danh và nhất là không phải vì lợi mà là để sáng tạo ra từ những chất liệu của tinh thần con người một cái gì trước đây chưa từng có. Vì vậy, giải thưởng này chỉ thuộc về tôi trong kỳ vọng. Tìm cách cống hiến khoản tiền trích từ giải thưởng cho tương xứng với mục đích và ý nghĩa khởi nguyên của nó không phải là việc khó khăn. Nhưng tôi cũng muốn làm như vậy với sự hoan nghênh nhiệt liệt bằng cách sử dụng giây phút này như một chóp đỉnh để từ đó, tôi có thể được những chàng trai và những cô gái trẻ lắng nghe, những kẻ đã sẵn sàng hiến mình cho nỗi khắc khoải và sự lao tác tương tự, trong số họ chắc chắn có một người vào một ngày nào đó sẽ đứng ở đây, nơi tôi đang đứng.

Bi kịch ngày hôm nay của chúng ta là nỗi sợ hãi chung và phổ quát mà chúng ta đã chống đỡ lâu đến mức ngay cả giờ đây chúng ta vẫn có thể chịu đựng nó. Không còn những vấn đề của tinh thần nữa. Chỉ còn một câu hỏi: Bao giờ ta sẽ nổ tung đây? Vì lẽ đó, người cầm bút trẻ tuổi hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người trong cuộc xung đột với chính nó, điều duy nhất có thể tạo ra tác phẩm hay, bởi đấy chính là điều duy nhất đáng để viết, đáng để thống khổ và nhọc nhằn.

Chân dung nhà văn William Faulkner -
tranh chì của Darrell Berry
Hắn phải học những vấn đề này lần nữa. Hắn phải tự giáo huấn rằng, điều hèn kém nhất trong tất cả mọi điều là sợ hãi, và tự giáo huấn rằng, hãy quên điều đó đi vĩnh viễn, đừng dành khoảng trống này trong văn phẩm của hắn cho bất cứ cái gì khác ngoài những chân lý cổ sơ, những sự thật của trái tim, những sự thật phổ quát xưa cũ mà nếu thiếu vắng chúng, câu chuyện nào cũng sẽ phù du và đáng bị kết án - đó là tình yêu, danh dự, xót thương, kiêu hãnh, trắc ẩn và hy sinh. Hắn sẽ phải lao tác dưới một lời nguyền rủa cho đến khi nào hắn làm được như thế. Hắn sẽ không viết về tình yêu mà chỉ viết về dục vọng, về những thất bại mà trong đó chẳng kẻ nào mất mát điều gì có giá trị, về những chiến thắng không có hy vọng và tệ hại hơn hết không có cả tình thương và lòng trắc ẩn. Những nỗi phiền muộn của hắn không khắc sâu trên những lóng xương nhân loại, cũng không để lại một vết sẹo nào. Hắn không viết về trái tim mà chỉ viết về các tuyến nội tiết.

Khi nào chưa học lại được những điều đó, hắn còn viết như thể hắn đang đứng giữa những con người mà nhìn ngắm sự lụi tàn của họ. Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người. Quả là dễ dàng khi nói rằng con người bất tử chỉ vì nó sẽ nhẫn nại; rằng khi tiếng chuông cuối cùng của ngày tận thế vang rền và tắt lịm từ mỏm đá cuối cùng tầm thường cheo leo khô cằn trong buổi hoàng hôn cuối cùng đỏ rực và chết chóc; rằng ngay cả khi ấy nữa vẫn còn một âm thanh: đó là tiếng nói yếu ớt không mệt mỏi của con người đang tiếp tục trò chuyện. Tôi khước từ chấp nhận điều này. Tôi tin tưởng rằng, con người sẽ chiến thắng. Nó bất tử không phải vì giữa muôn loài nó có một tiếng nói không mệt mỏi, mà là vì nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hy sinh và nhẫn nại. Bổn phận của nhà thơ và nhà văn là viết về những điều ấy. Đó là đặc quyền của hắn để giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn mình, bằng cách nhắc nhở con người về can đảm, danh dự, hy sinh, những gì đã từng là vinh quan trong quá khứ của họ. Tiếng nói của nhà thơ cần phải không chỉ là di tích của con người, mà còn có thể là những điểm tựa, những cột trụ giúp con người chịu đựng và chiế thắng.